0946 069 661 | 0946 321 481 | Ôn cấp tốc THPT toán | Học tại trung tâm

TRUNG TÂM DẠY KÈM TRỌNG TÍN

GIỚI THIỆU GIA SƯ DẠY KÈM TẠI NHÀ
CÓ LỚP HỌC TOÁN, LÍ, HOÁ TẠI TRUNG TÂM

Giáo viên dạy kèm lớp 1 đến 12, ôn thi vào lớp 10, THPT
Gia sư giỏi kinh nghiệm dạy kèm tại nhà uy tín tại Tp.HCM

CUNG CẤP GIÁO VIÊN DẠY KÈM

LỚP 1->12, ÔN THI LỚP 10, THPT

Dạy kèm tại nhà học sinh

Đăng ký dạy kèm

Lớp dạy kèm mới

............................. 0946 321 481

LỚP HỌC TẠI TRUNG TÂM

TOÁN, LÍ, HOÁ 6->12

Học tại trung tâm  Thời khoá biểu  Học phí ............................. 0946 069 661

 Chào mừng quý khách đến với website: giasutrongtin.vn chạm tay vào số điện thoại để gọi, chân thành cảm ơn quý khách và hẹn gặp lại 

TẬN TÂM, HIỆU QUẢ

 Bạn đang lo lắng kết quả học tập của con mình?

Bạn cần tìm giáo viên dạy kèm tại nhà?

 Giáo viên dạy kèm hiệu quả trong thời gian ngắn. 

Có lớp toán, lí, hoá 6 đến 12 tại trung tâm.

Zalo: 0946069661

Trung Tâm Dạy Kèm Trọng Tín >> Tâm lý lứa tuổi >> HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC, CẢM GIÁC, TRI GIÁC CON NGƯỜI

HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC, CẢM GIÁC, TRI GIÁC CON NGƯỜI

Chương IV. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC

Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người (nhận thức, tình cảm và hành động). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chúng và với các hiện tượng tâm lí khác.

Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình phản ánh hiện thực khách quan ở những mức độ khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng…Những quá trình này cho ta những sản phẩm khác nhau: hình ảnh, biểu tượng, khái niệm. Đại thể có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai giai đoạn lớn: nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác) và nhận thức lí tính (tư duy và tưởng tượng). Trong hoạt động nhận thức của con người hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. V.I. Lênin đã tổng kết quy luật đó của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.

4.1. NHẬN THỨC CẢM TÍNH

4.1.1. Khái niệm về cảm giác và tri giác

Trong quá trình tiến hoá của sinh giới (phát sinh chủng loại) và trong quá trình phát triển của một đứa trẻ (phát sinh cá thể) thì cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới xung quanh. Có những con vật chỉ phản ánh được những thuộc tính riêng lẻ có ý nghĩa sinh học trực tiếp của sự vật, hiện tượng mà thôi. Đứa trẻ trong những tuần lễ đầu tiên cũng như vậy. Điều đó nói lên rằng, cảm giác là hình thức khởi đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận thức.

Cảm giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào giác quan của ta.

Cảm giác có những đặc điểm sau:

– Là một quá trình nhận thức (có nảy sinh, diễn biến và kết thúc) có kích thích là bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.

– Chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Đặc điểm này cho thấy cảm giác là mức độ nhận thức thấp nhất.

– Phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, nghĩa là sự vật, hiện tượng phải trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Đặc điểm này cũng nói lên mức độ thấp của cảm giác nói riêng và nhận thức cảm tính nói chung trong sự phản ánh hiện thực khách quan.

Cũng như những hiện tượng tâm lí khác, cảm giác của con người có bản chất xã hội, thể hiện ở những điểm sau:

– Đối tượng phản ánh của cảm giác ở con người không phải chỉ là những sự vật hiện tượng vốn có trong tự nhiên, mà còn bao gồm cả những sản phẩm do lao động của con người tạo ra.

– Cơ chế sinh lí của cảm giác ở con người không chỉ giới hạn ở hệ thống tín hiệu thứ nhất, mà cả ở hệ thống tín hiệu thứ hai nữa.

– Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt động và giáo dục (ví dụ, người thợ dệt có thể phân biệt được tới 60 màu đen khác nhau).

Để phản ánh các sự vật, hiện tượng một cách chỉnh thể, các cảm giác riêng lẻ, do sự hoạt động của từng cơ quan phân tích riêng lẻ đem lại, được tổng hợp lại trên vỏ não và đem lại cho con người một hình ảnh trọn vẹn, hoàn chỉnh về các sự vật, hiện tượng. Đó là các hình ảnh của tri giác.

Tri giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.

Tri giác có những đặc điểm cơ bản sau:

– Cũng là một quá trình nhận thức, cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.

– Nhưng phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn: tri giác đem lại cho ta những hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng. Tuy là những hình vẽ không đầy đủ nhưng nhìn vào các hình bên ta đều tri giác chúng như là một hình tròn, một hình tam giác, chứ không phải là một tập hợp các nét gạch hay các dấu chấm đơn giản

Tính trọn vẹn của tri giác là do tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật và hiện tượng quy định. Trên cơ sở kinh nghiệm, hiểu biết của mình, chỉ cần tri giác một số thành phần riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thôi, chúng ta cũng tổng hợp được các thành phần riêng lẻ đó và tạo nên hình ảnh trọn vẹn của sự vật, hiện tượng. Sự tổng hợp này được thực hiện trên cơ sở sự hoạt động phối hợp của nhiều cơ quan phân tích.

– Liên quan đến tính trọn vẹn, tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Tri giác không phải là một tổng số các cảm giác. Sự thực là chúng ta tri giác một cấu trúc khái quát đã được trừu xuất từ những cảm giác đó, trong mối liên hệ qua lại giữa các thành phần của nó (của cấu trúc ấy), và mối liên hệ này được hình thành trong suốt một khoảng thời gian nào đó. Ví dụ, khi ta tri giác ngôn ngữ của người khác mà hiểu được là vì các từ của họ phát ra nằm trong một cấu trúc nhất định, với những mối liên hệ qua lại xác định giữa các thành phần của cấu trúc ấy. Sự phản ánh này không phải đã có từ trước mà nó diễn ra trong quá trình tri giác. Đó là tình kết cấuu của tri giác.

– Những đặc điểm trên đây chứng tỏ tri giác là một quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động của con người. Thường thì sự tri giác của con người mang tính chất tự giác, nó không phải là một quá trình xem xét thụ động, giản đơn, mà là sự giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào đó. Người ta đã chứng minh được rằng, tri giác là một hành động tích cực, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của các yếu tố cảm giác và vận động.

4.1.2. Các loại cảm giác và tri giác

4.1.2.1. Các loại cảm giác

Căn cứ vào vị trí của nguồn kích thích gây ra cảm giác nằm ở ngoài hay trong cơ thể, người ta chia cảm giác thành hai nhóm lớn: các cảm giác bên ngoài và các cảm giác bên trong.

* Các cảm giác ngoài gồm:

– Cảm giác nhìn (thị giác).

– Cảm giác nghe (thính giác).

– Cảm giác ngửi (khứu giác).

– Cảm giác nếm (vị giác).

– Cảm giác da (mạc giác), gồm 5 loại: cảm giác đụng chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác lạnh và cảm giác đau.

* Các cảm giác trong gồm:

– Cảm giác vận động và sờ mó (cảm giác sờ mó là sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm);

– Cảm giác thăng bằng;

– Cảm giác cơ thể;

– Cảm giác rung;

Như vậy, quan niệm cũ cho rằng người ta chỉ có 5 giác quan (ngũ quan) là không chính xác.

4.1.2.2. Các loại tri giác

Thường người ta phân loại tri giác theo 2 cách: phân loại theo cơ quan phân tích nào giữ vai trò chính trong số các cơ quan phân tích tham gia vào quá trình tri giác và phân loại theo đối tượng được phản ánh trong tri giác.

Theo cách phân loại thứ nhất, ta có các loại tri giác sau:

– Tri giác nhìn;

– Tri giác nghe;

– Tri giác sờ mó v.v…

Theo cách phân loại thứ hai, ta có các loại tri giác sau:

– Tri giác không gian;

– Tri giác thời gian;

– Tri giác vận động;

– Tri giác con người (tri giác xã hội).

4.1.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác

4.1.3.1. Quy luật về ngưỡng cảm giác

Không phải mọi sự kích thích vào giác quan đều gây ra cảm giác: kích thích quá yếu hay quá mạnh đều không gây ra cảm giác. Giới hạn của cường độ mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác thì gọi là ngưỡng cảm giác. Có hai loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác và ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây ra được cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía dưới

hay còn gọi là ngưỡng tuyệt đối, nó tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác. Ví dụ: ngưỡng phía dưới của thị giác ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là 390 mm, còn ngưỡng phía trên là 780 mm. Ngoài hai giới hạn trên là những tia cực tím (tử ngoại) và cực đỏ (hồng ngoại), mắt người không nhìn thấy được.

Ngoài ra, người ta còn nói đến ngưỡng sai biệt. Đó là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để ta phân biệt được hai kích thích đó. Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hằng số và nó tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác.

4.1.3.2. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác

Để bảo đảm cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo vệ cho hệ thần kinh khỏi bị huỷ hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích: khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm, khi cường độ kích thích giảm thì tăng độ nhạy cảm.

Ví dụ, khi ta đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích thị giác mạnh) mà vào chỗ tối (cường độ kích thích thị giác yếu) thì lúc đầu không nhìn thấy gì cả, phải sau một thời gian ta mới dần dần thấy rõ (thích ứng). Trong trường hợp này xảy ra sự tăng độ nhạy cảm của thị giác.

Mức độ thích ứng của các loại cảm giác khác nhau là không giống nhau. Khả năng thích ứng của cảm giác có thể được phát triển do hoạt động nghề nghiệp và rèn luyện.

4.1.3.3. Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác

Các cảm giác ở con người luôn tác động qua lại với nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập. Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia. Sự tác động qua lại đó diễn ra theo một quy luật chung như sau: sự kích thích yếu lên một giác quan này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một giác quan kia, sự kích thích mạnh lên một giác quan này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một giác quan kia.

Ví dụ, khi uống một cốc nước đường còn nóng thì cảm thấy ít ngọt hơn khi uống củng cốc nước đường đó nhưng để nguội. Như vậy, nhiệt giác đã ảnh hướng đến vị giác.

Sự tác động qua lại giữa các cảm giác có thể diễn ra một cách đồng thời hay nối tiếp, giữa các cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự tương phản chính là hiện tượng tác động qua lại giữa các cảm giác thuộc cùng một loại. Đó là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của một kích thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời.

Ví dụ, nếu ta đặt 2 tờ giấy màu xám như nhau lên thột cái nền trắng và một cái nền đen, thì ta sẽ cảm thấy tờ giấy màu xám đặt trên nền trắng xám hơn tờ giấy màu xám đặt trên nền đen. Đó là sự tương phản đồng thời. Sau khi nhúng tay vào nước lạnh, nếu ta nhúng tay vào nước ấm thì ta có cảm giác nước có vẻ nóng hơn. Đó là sự tương phản nối tiếp.

4.1.4. Các thuộc tính cơ bản của tri giác

4.1.4.1. Tính đối tượng của tri giác

Do sự tác động của những sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới xung quanh vào giác quan ta mà tính đối tượng của tri giác được hình thành: hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định nào đó của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng – nó là cơ sở của chức năng định hướng cho hành vi và hoạt động của con người. Sự hình thành tính đối tượng của tri giác trong quá trình phát triển cá thể được gắn liền với những hành động thực tiễn đầu tiên của đứa trẻ, những hành động này mang tính chất có đối tượng, được hướng vào các khách thể bên ngoài và thích ứng với những đặc điểm, với vị trí và hình dáng của chúng. Sau này, khi tri giác được tách thành một hệ thống tương đối độc lập của các hành động tri giác, thì hoạt động thực tiễn tiếp tục đề ra cho nó những nhiệm vụ tri giác này nọ và do đó, tất yếu là đòi hỏi một sự phản ánh có đối tượng một cách phù hợp đối với hiện thực.

4.1.4.2. Tính lựa chọn của tri giác

Thực chất tri giác là một quá trình lựa chọn tích cực: khi ta tri giác một sự vật nào đó thì có nghĩa là ta đã tách sự vật đó ra khỏi bối cảnh xung quanh, lấy nó làm đối tượng phản ánh của mình.

Ví dụ, khi chúng ta tri giác giáo viên trên lớp, thì người giáo viên trở thành đối tượng tri giác của chúng ta, tất cả những cái còn lại xung quanh người giáo viên (bàn, ghế, sách vở, bảng…) đều trở thành bối cảnh (cái nền) của sự tri giác.

Vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể hoán đổi cho nhau: một vật nào đó lúc này là đối tượng của tri giác, lúc khác lại có thể trở thành bối cảnh, và ngược lại, sự tri giác những hình hai nghĩa nói lên điều này.

Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan (hứng thú, nhu cầu, tâm thế…của cá nhân) và khách quan (đặc điểm của vật kích thích, ngôn ngữ của người khác, đặc điểm của hoàn cảnh tri giác…).

4.1.4.3. Tính có ý nghĩa của tri giác

Những hình ảnh tri giác mà con người thu nhận được luôn luôn có một ý nghĩa xác định. Ở con người, tri giác gắn chặt với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật. Tri giác sự vật một cách có ý thức – điều đó có nghĩa là gọi được tên của sự vật đó ở trong óc, và xếp được sự vật đang tri giác vào một nhóm, một lớp các sự vật xác định, khái quát nó trong một từ xác định. Ngay cả khi tri giác một sự vật không quen thuộc, chúng ta củng cố thu nhận trong nó một sự giống nhau nào đó với những đối tượng mà mình đã biết, xếp nó vào một phạm trù nào đó. Như trên đã nói, khi tri giác sự vật nào đó ở ta phải có sự tìm kiếm cơ động bằng cách tổng hợp những tài liệu đã có: việc tách đối tượng tri giác ra khỏi bối cảnh được gắn liền với việc hiểu được ý nghĩa và tên gọi của nó (ví dụ khi tri giác hình 2 nghĩa).

4.1.4.4. Tính ổn định của tri giác

Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật, hiện tượng một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác bị thay đổi. Ví dụ, trên võng mạc của các em học sinh ngồi ở đầu bên phải hoặc bên trái của những bàn đầu thuộc dãy bên phải hoặc bên trái, thì tấm bảng của lớp sẽ có hình bình hành, nhưng các em vẫn hiểu (tri giác) cái bảng có hình chữ nhật! hoặc khi ta ngồi viết dưới ánh đèn xanh, thì trên võng mạc của ta giấy viết có màu xanh, nhưng ta vẫn “hiểu” là giấy viết màu trắng.

Tính ổn định của tri giác được hình thành trong hoạt động với đồ vật và là một điều kiện cần thiết của đời sống và hoạt động của con người. Nếu không có nó thì con người không thể nào định hướng được trong thế giới đa dạng và biến đổi vô tận này. Tính ổn định của tri giác do kinh nghiệm mà có.

4.1.4.5. Tổng giác

Ngoài bản thân những kích thích gây ra nó, tri giác của con người còn bị quy định bởi một loạt các nhân tố nằm trong bản thân chủ thể tri giác. Không phải cái tai, con mắt…tự nó tri giác sự vật, mà là một con người cụ thể, sống động tri giác sự vật. Bởi vậy, những đặc điểm nhân cách của người tri giác, thái độ của họ đối với cái được tri giác, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng. sở thích, tình cảm… của họ luôn luôn được thể hiện ở mức độ nhất định trong sự tri giác của họ. Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung của đời sống tâm lí con người, là đặc điểm nhân cách của họ, được gọi là hiện tượng tổng giác. Câu thơ bất hủ của Nguyễn Du đã diễn tả quy luật này:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Như vậy, tri giác là một quá trình tích cực, ta có thể điều khiển được nó.

Trong quá trình dạy học và giáo dục, chúng ta cần vận dụng các quy luật nêu trên của cảm giác và tri giác nhằm nâng cao hiệu quả của cảm giác, tri giác ở học sinh, nâng cao năng lực quan sát của các em, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục.

4.1.5. Vai trò của nhận thức cảm tính

Qua những đặc điểm đã nêu của cảm giác và tri giác, chúng ta thấy ngoài những đặc điểm khác nhau, quy định mức độ khác nhau giữa chúng, chúng đều có những đặc điểm giống nhau cơ bản. Những điểm giống nhau này quy định tính chất chung của nhận thức cảm tính, mà cảm giác và tri giác là hai mức độ khác nhau của nhận thức cảm tính. Đó là những đặc điểm sau:

  1. Dù phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ (cảm giác) hay trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng (tri giác) thì đó đều là những thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng, chứ chưa phải là những thuộc tính bên trong, bản chất.
  2. Cảm giác và tri giác đều phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng, điều mà V. I.Lênin gọi là “trực quan sinh động”, nghĩa là chúng đều phản ánh những cái trong hiện tại, đang tác động vào ta lúc đó.
  3. Cảm giác và tri giác đều phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cá lẻ, nghĩa là phản ánh từng thuộc tính hay trọn vẹn các thuộc tính của từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể, chứ chưa phải một lớp, một loại hay một phạm trù khái quát nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại.

Những đặc điểm trên nói lên rằng nhận thức cảm tính là giai đoạn ban đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người. Muốn làm chủ được tự nhiên, xã hội và bản thân mình, con người phải vươn khỏi giới hạn của nhận thức cảm tính, đi sâu hơn, phản ánh cái bản chất bên trong, phản ánh gián tiếp và khái quát các sự vật hiện tượng, nghĩa là phải tiến lên giai đoạn lí tính. Tuy vậy, nhận thức cảm tính giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức nói chung của con người:

– Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người và là nguồn cung cấp nguyên liệu để con người tiến

hành những quá trình nhận thức cao hơn.

Đặc biệt, với những người bị khuyết tật (câm, mù, điếc) thì cảm giác, nhất là xúc giác, là con đường nhận thức quan trọng đối với họ.

Cảm giác còn là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động (trạng thái hoạt hoá) của vỏ não, do đó bảo đảm cho hoạt động tinh thần bình thường của con người.

– Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, nhất là ở người trưởng thành.

– Hình ảnh của tri giác thực hiện chức năng là vật điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người trong thế giới xung quanh. Đặc biệt, sự quan sát được phát triển như là một bộ phận cấu thành của các thao tác lao động, giữ vai trò xác lập sự phù hợp của các sản phẩm lao động với hình ảnh lí tưởng đã được hoạch định của nó.

4.1.6. Tính nhạy cảm và năng lực quan sát

4.1.6.1. Tính nhạy cảm

hay năng lực cảm giác được phát triển ở mỗi người với những mức độ khác nhau. Điều này phụ thuộc vào những phẩm chất tự nhiên (đặc điểm cấu tạo và chức năng của các giác quan), cũng như vào hoạt động mà con người tham gia trong đó. Bởi vậy, tính nhạy cảm là một phẩm chất của nhân cách. Việc tham gia lâu dài vào một hoạt động đòi hỏi sự nhạy cảm đặc biệt của một cảm giác nào đó, sẽ làm tăng độ nhạy cảm của cảm giác đó lên. Chẳng hạn, những người thợ dệt lâu năm có thể phân biệt được tới 60 sắc thái khác nhau của màu đen!

4.1.6.2. Quan sát

là mức độ phát triển cao của tri giác. Đó là loại tri giác tích cực, có chủ định, diễn ra tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng.

Năng lực quan sát của mỗi người là khác nhau. Do là khả năng tri giác một cách nhanh chóng và chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng, mặc dù những điểm đó khó nhận thấy hoặc có vẻ như là thứ yếu. Năng lực này được hình thành trong quá trình hoạt động và rèn luyện.

Muốn quan sát tốt, cần chú ý các yêu cầu sau:

  1. Xác định rõ ràng mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nhiệm vụ quan sát.
  2. Chuẩn bị chu đáo (tri thức và phương tiện) trước khi quan sát.
  3. Tiến hành quan sát có kế hoạch, có hệ thống.
  4. Khi quan sát cần tích cực sử dụng các phương tiện ngôn ngữ.
  5. Đối với trẻ nhỏ, nên tạo điều kiện cho các em sử dụng nhiều giác quan khi quan sát.
  6. Cần ghi lại các kết qua quan sát, xử lí kết quả và rút ra nhận xét.

4.2. NHẬN THỨC LÍ TÍNH

4.2.1. Tư duy

4.2.1.1. Khái niệm về tư duy

Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính chất quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết.

Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với nhận thức cảm tính. Nếu cảm giác, tri giác mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài, những mối liên hệ và quan hệ bên ngoài của sự vật và hiện tượng, thì tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính chất quy luật của sự vật, hiện tượng.

Tư duy của con người có những đặc điểm cơ bản sau đây:

  • Tính “có vấn đề” của tư duy. Tư duy chỉ trở nên thực sự cần thiết trong những hoàn cảnh (tình huống) mà ở đó nảy sinh những mục đích mới, và những phương tiện, phương pháp hoạt động cũ đã có trước đây trở nên không đủ (mặc dù là cần thiết) để đạt tới mục đích đó. Những hoàn cảnh (tình huống) như thế được gọi là hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề.

Nhưng muốn kích thích được tư duy thì hoàn cảnh có vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm là tư duy của cá nhân – nghĩa là cá nhân phải xác định được cái gì đã biết, đã cho (dữ kiện) và cái gì chưa biết, cần phải tìm, và có nhu cầu tìm kiếm nó. Dĩ nhiên, nếu những dữ kiện đó nằm ngoài phạm vi hiểu biết của cá nhân, thì tư duy cũng không xuất hiện (ví dụ, câu hỏi “giai cấp là gì?” sẽ chẳng làm cho các cháu học sinh lớp 1 suy nghĩ!).

  • Tính gián tiếp của tư duy. Khác với nhận thức cảm tính, tư duy phản ánh các sự vật, hiện tượng một cách gián tiếp bằng ngôn ngữ. Tư duy được biểu hiện trong ngôn ngữ. Các quy luật, quy tắc, các sự kiện, các mối liên hệ và sự phụ thuộc được khái quát và được diễn đạt trong các từ. Mặt khác, những phát minh, những kết quả tư duy của người khác, cũng như cả kinh nghiệm cá nhân của con người đều là công cụ để mỗi người tìm hiểu thế giới xung quanh, để giải quyết những vấn đề mới đối với họ. Ngoài ra, các công cụ do con người tạo ra (như nhiệt kế, đồng hồ, các máy móc điện tử v.v…) cũng giúp cho chúng ta hiểu biết được những hiện tượng có trong hiện thực mà không thể tri giác chúng một cách trực tiếp được.
  • Tính trừu tượng và khái quát của tư duy. Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng, những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật và hiện tượng, rồi trên cơ sở đó mà khái quát các sự vật, hiện tượng riêng lẻ khác nhau, nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác, tư duy mang tính trừu tượng và khái quát. Nhờ đặc điểm này của tư duy mà con người có thể nhìn xa vào tương lai nghĩa là giải quyết ở trong đầu những nhiệm vụ đề ra cho họ sau này, chứ không chỉ giải quyết những nhiệm vụ hiện tại. Ví dụ, nắm được quy luật đàn hồi của kim loại dưới tác dụng của nhiệt, người kĩ sư đã thiết kế những khoảng cách nhỏ giữa các đoạn đường ray.
  • Tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Sở dĩ tư duy của con người có những đặc điểm đã nêu trên đây (tính có vấn đề, tính gián tiếp, trừu tượng và khái quát) chính là vì tư duy của con người gắn liền với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Tư duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được, ngược lại ngôn ngữ cũng không thể có được nếu không dựa vào tư duy. Tư duy và ngôn ngữ thống nhất với nhau, nhưng không đồng nhất và tách rời nhau được. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
  • Tính chất lí tính của tư duy. Chỉ có tư duy mới giúp con người phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của chúng, bởi vì chỉ tư duy mới có thể vượt qua được những giới hạn trực quan, cụ thể của nhận thật cảm tính. Nhưng như thế không có nghĩa là, cứ tư duy là phản ánh đúng đắn, sâu sắc sự vật, hiện tượng. Tư duy có phản ánh đúng hay không là còn tuỳ thuộc vào chiến thuật và phương pháp tư duy nữa.
  • Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính. Mối quan hệ này là mối quan hệ qua lại, hai chiều; tư duy được tiến hành trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, tính đúng đắn của các kết quả tư duy được kiểm tra bằng thực tiễn, dưới hình thức trực quan. Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó có ảnh hưởng đến các quá trình nhận thức cảm tính, ví dụ, đến tính lựa chọn, tính có ý nghĩa, tính ổn định của tri giác… “Nhập vào với con mắt của chúng ta chẳng những có cảm giác khác, mà còn có cả hoạt động tư duy của ta nữa.

Những đặc điểm trên đây cho thấy tư duy là sản phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội, mang bản chất xã hội. Nói cách khác, con người là chủ thể duy nhất của quá trình tư duy đích thực. Mặc dù có tác dụng to lớn đối với đời sống của con người, nhưng “tư duy” của máy không phải là thứ tư duy chân chính mà ta nói ở đây – máy không có khả năng

sáng tạo, đó chỉ hoạt động, “suy nghĩ” theo những chương trình đã có sẵn, do con người đặt ra cho nó. Nói cách khác,

  • “lối ra” của máy tính (computer) không xuất hiện một cái gì mới về nguyên tắc so với những thông tin mà máy đã nhận được từ người lập chương trình qua “lối vào” khi nó bắt đầu hoạt động.

4.2.1.2. Tư duy như một quá trình, các thao tác tư duy cơ bản

  • Tư duy là một quá trình: Mỗi một hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó, nẩy sinh trong quá trình nhận thức hay hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn từ khi cá nhân gặp phải tình huống có vấn đề và nhận thức được vấn đề, cho đến khi vấn đề đó được giải quyết. Quá trình đó được thực hiện bằng các thao tác trí tuệ nhất định, theo từng bước nhất định và đem lại những sản phẩm nhất định. Tóm lại, tư duy có đầy đủ các dấu hiệu của một quá trình: có nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Nhưng đôi khi cách giải quyết đã tìm ra được lại gây ra những vấn đề mới, là khởi đầu cho những hành động tư duy mới hay là những quá trình tư duy phức tạp, lâu dài.

Quá trình tư duy gồm những giai đoạn sau: Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề -> Huy động các tri thức kinh nghiệm có liên quan đến vấn đề đã xác định được -> Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết-> Kiểm tra giả thuyết -> Giải quyết nhiệm vụ. K.K. Platônốp đã sơ đồ hoá các giai đoạn đó như sau:

Sơ đồ các giai đoạn của một quá trình tư duy

  • Tư duy là một hành động trí tuệ. Tính giai đoạn của tư duy chỉ mới phản ánh được mặt bên ngoài, cấu trúc bên ngoài của quá trình tư duy. Còn nội dung bên trong của mỗi giai đoạn trong quá trình tư duy lại là một quá trình vận động phức tạp của ý nghĩ từ cái đã tri biết đến cái phải tìm, từ các sự kiện đến những khái quát, kết luận, giải pháp. Nó diễn ra trên cơ sở những thao tác tư duy đặc biệt.

Xét về bản chất, thì tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấn đề, hay nhiệm vụ được đặt ra cho nó. Cá nhân có tư duy hay không tư duy chính là ở cho họ có tiến hành các thao tác tư duy trong đầu mình hay không? Vì vậy các nhà tâm lí học còn gọi các thao tác tư duy là những quy luật bên trong (nội tại) của tư duy. Có các thao tác tư duy cơ bản sau:

  • Phân tích – tổng hợp: Phân tích là sự phân chia bằng trí óc đối tượng nhận thức thành các bộ phận, các thành phần, thuộc tính, quan hệ khác nhau để nhận thức nó sâu sắc hơn. Tổng hợp là sự hợp nhất bằng trí óc các bộ phận, thành phần, thuộc tính, quan hệ…của đối tượng nhận thức thành một chỉnh thể.

Phân tích và tổng hợp thống nhất với nhau: sự phân tích được tiến hành theo phương hướng của sự tổng hợp; còn tổng hợp được thực hiện trên kết quả của phân tích.

  • So sánh: là sự xác định bằng trí óc sự giống hay khác nhau. sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật, hiện tượng. “So sánh là cơ sở của mọi sự hiểu biết và tư duy”(K. Đ. Usinxki).
  • Trừu tượng hoá – khái quát hoá: Trừu tượng hoá là sự gạt bỏ bằng trí óc những mặt, những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố nào cần thiết để tư duy thôi. Khái quát hoá là sự hợp nhất bằng trí óc nhiều đối tượng khác nhau nhưng có chung những thuộc tính, liên hệ, quan hệ…nhất định thành một nhóm, một loại. Khái quát hoá bao giờ cũng đem lại một cái chung nào đó. Những thuộc tính chung này có hai loại:
  1. a) Những thuộc tính chung là những thuộc tính giống nhau.
  2. b) Những thuộc tính chung là những thuộc tính bản chất.

Khái quát hoá chỉ dựa trên những dấu hiệu chung giống nhau thì dễ dẫn đến sai lầm (ví dụ cho cá voi cũng thuộc loại cá).

Trừu tượng hoá và khái quát hoá có quan hệ qua lại với nhau, như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp. Khái quát hoá chính là sự tổng hợp ở mức độ cao.

Các thao tác tư duy cũng như các mặt của cùng một thao tác đều có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thống nhất với nhau theo một hướng nhất định do nhiệm vụ tư duy quy định (chiến lược tư duy).

4.2.1.3. Các loại tư duy

Nếu xét theo lịch sử hình thành (chủng loại và cá thể) và mức độ phát triển của tư duy, thì người ta chia tư duy làm 3 loại:

  • Tư duy trực quan – hành động: đó là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế các tình huống, nhờ các hành động vận động có thể quan sát được, loại tư duy này có cả ở những động vật cao cấp;
  • Tư duy trực quan – hình ảnh: đó là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi, loại tư duy này chỉ có ở con người, đặc biệt ở trẻ nhỏ;
  • Tư duy trừu tượng (hay tư duy từ ngữ – lôgic): đó là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên sự sử dụng các khái niệm: các kết cấu lôgic được tồn tại và vận hành trên cơ sở ngôn ngữ.

Ba loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn phát triển của tư duy trong quá trình phát sinh chủng loại và cá thể.

Nếu căn cứ theo hình thức biểu hiện của nhiệm vụ (vấn đề) và phương thức giải quyết nhiệm vụ (vấn đề), thì người ta chia ra ba loại tư duy sau đây ở người trưởng thành:

  • Tư duy thực hành: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ, tư duy của người thợ sửa chữa xe hơi khi xe không chạy.
  • Tư duy hình ảnh cụ thể: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức một hình ảnh cụ thể, và sự giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh trực quan đã có. Ví dụ, khi ta suy nghĩ xem từ trường về nhà đi đường nào cho ngắn nhất chẳng hạn.
  • Tư duy lí luận: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức lí luận và việc giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Ví dụ, sự tư duy của học sinh khi ngồi nghe giảng bài trên lớp; tư duy của thầy giáo khi soạn bài…

Trong thực tế, con người trưởng thành rất ít khi sử dụng thuần tuý một loại tư duy nào đó trong các loại trên, mà thường các loại tư duy trên được phối hợp với nhau, trong đó một loại nào đó giữ vai trò chủ chốt. Ví dụ, ở người hoạ sĩ không phải không có tư duy lí luận, vì họ phải xây dựng hình ảnh để thông qua đó biểu đạt những ý nghĩ, tư tưởng nhất định. Tính chất của hoạt động nghề nghiệp đã làm cho họ thiên về loại tư duy hình ảnh cụ thể hơn thôi.

4.2.1.4. Trí tuệ và các phẩm chất cơ bản của trí tuệ

Việc nghiên cứu trí tuệ hiện này là một trong những vấn đề được tranh luận sôi nổi trong tâm lí học. Có rất nhiều tài liệu nói về vấn đề này. Có nhiều khuynh hướng và trường phái khác nhau trong việc giải quyết vấn đề này. Nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này đã phát biểu những quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau về bản chất và các con đường nghiên cứu trí tuệ bằng thực nghiệm. Không phải ngẫu nhiên mà người ta ngày càng quan tâm đến vấn đề bản chất trí tuệ và các con đường đo lường trí tuệ một cách phù hợp. Bởi vì, việc giải quyết có kết quả những vấn đề trên sẽ kéo theo sự tiến bộ và phát triển của một loạt các khoa học về con người và có một giá trị thực tiễn to lớn.

Ngày nay, hoàn toàn có căn cứ để nói rằng, vấn đề trí tuệ là một vấn để liên ngành, phức hợp. Ở đây đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các nhà tâm lí học và tâm thần học, các nhà sinh lí học và điều khiển học, các nhà sinh học và toán học. Việc giải quyết thành công vấn đề năng lực của con người phụ thuộc vào những thành công trong sự phát triển của các khoa học đó và nhiều khoa học khác nữa.

Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu tâm lí học vẫn giữ vai trò đặc biệt, vì ở đó biểu tượng về bản chất của trí thông minh được nghiên cứu và trên cơ sở đó các phương pháp đo lường nó được đề ra. Muốn nghiên cứu và đo lường trí tuệ thì cần đưa ra một định nghĩa, chỉ là định nghĩa để làm việc về trí tuệ. Điều này không phải được thực hiện một cách dễ dàng.

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí tuệ. Một cách chung nhất, có thể nói rằng có hai xu hướng: giải thích trí

tuệ quá rộng hoặc quá thu hẹp khái niệm trí tuệ vào các quá trình tư duy. Trong vô số các định nghĩa về trí tuệ có thể thấy rõ có 3 loại: a) coi trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng; b) coi trí tuệ là năng lực học tập; c) coi trí tuệ là năng lực thích ứng.

Các quan điểm cơ bản trên đây đối với việc định nghĩa trí tuệ không loại trừ lẫn nhau. Mỗi quan điểm đều xuất phát từ một dấu hiệu nào đó được cho là quan trọng nhất. Rõ ràng là, không một định nghĩa nào trong các định nghĩa trên chứa đựng được hết bản chất của một hiện tượng phức tạp như trí tuệ con người.

Khi nêu lên các mặt lí luận và phương pháp luận của việc nghiên cứu trí tuệ, chúng ta muốn nhấn mạnh:

  1. Tính độc lập tương đối của trí tuệ đối với các thuộc tính khác của nhân cách;
  2. Sự hình thành và thể hiện của trí tuệ trong hoạt động,
  3. Tính quy định (chế ước) các thể hiện của trí tuệ bởi những điều kiện văn hoá – lịch sử.
  4. Chức năng thích ứng của trí tuệ.

Trên cơ sở quan niệm như vậy, Blây–khe và Bu-rơ–la–chúc đã đưa ra một định nghĩa về trí tuệ như sau: “Trí tuệ – đó là một câu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức của nhân cách, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hoá – lịch sử quy định và chủ yếu bảo đảm cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích hiện thực ấy”.

Trí tuệ có nhiều phẩm chất khác nhau. Nhưng các nhà tâm lí học quan tâm nhiều hơn đến các phẩm chất sau:

  1. Tốc độ định hướng trí tuệ nhanh khi giải quyết các nhiệm vụ, bài tập, tình huống…không quen thuộc (còn gọi là sự “nhanh trí”).
  2. Tốc độ khái quát hoá nhanh.
  3. Tính mềm dẻo của trí tuệ.
  4. Tính tiết kiệm của tư duy, nghĩa là số lượng ít những suy luận mà trên cơ sở đó rút ra được một quy luật mới.

Trình độ phát triển của trí tuệ ở mỗi cá nhân được đánh giá bằng chỉ số IQ (Intelligence Quotient), theo công thức:

X –`X
IQ = 15 + 1000
SD

 

(X là điểm trắc nghiệm của cá nhân, X là điểm trắc nghiệm trung bình của cả nhóm tuổi, SD là độ lệch chuẩn của các điểm số trong nhóm tuổi). Muốn xác định IQ, người ta dùng các trắc nghiệm IQ.

Hiện nay người ta áp dụng bảng phân loại IQ của D. Wechsler như sau:

IQ Phân loại Tỉ lệ % trong dân số
130 trở lên Rất xuất sắc 2,2
120–129 Xuất sắc 6,7
110–119 Thông minh 16,1
90–109 Trung bình 50,0
80–89 Xoàng 16,1
70–79 Kém 6,7
69 trở xuống Đần độn 2,2

 

Trong thời đại ngày nay, phong cách làm việc của con người thay đổi nhanh chóng, uyển chuyển và cởi mở hơn, đòi hỏi phải có sự kết hợp của trí tuệ, lí trí với xúc cảm, đặc biệt khi con người tin tưởng và hợp tác với những người khác để giải quyết các vấn đề và nắm bắt các vận hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy: rất thông minh chưa chắc đã đủ bảo đảm cho sự thành đạt của mỗi người. Muốn thành đạt, người còn rất cần một hệ số cảm xúc (EQ – Emotiọnal Quotient) cao.

Ngày nay người ta cho rằng có hai hình thức khác nhau của trí tuệ: trí tuệ lí trí và trí tuệ cảm xúc. Cách chúng ta hướng dẫn cuộc sống của mình được quyết định bởi hai thứ trí tuệ ấy.

“Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết các cảm xúc của mình và của người khác, năng lực tự thúc đẩy và năng lực quản lí tốt các cảm xúc trong bản thân mình và trong các mối liên hệ với người khác” (Daniel Goleman, 1998).

4.2.2. Tưởng tượng

4.2.2.1. Khái niệm về tưởng tượng

Trong thực tế, không phải bất cứ trường hợp nào, các vấn đề, các nhiệm vụ do thực tiễn đề ra đều được giải quyết bằng tư duy cả. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề con người không thể dùng tư duy để giải quyết vấn đề mà phải dùng một quá trình nhận thức lí tính khác, gọi là tưởng tượng.

Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.

Tưởng tượng có những đặc điểm cơ bản sau:

– Về nội dung phản ánh, thì tường tượng phản ánh cái mới, cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc của xã hội.

– Về phương thức phản ánh, thì tưởng tượng tạo ra cái mới từ các biểu tượng đã có và được thực hiện chủ yếu dưới hình thức các hình ảnh cụ thể.

– Về cơ chế sinh lí, thì tưởng tượng có cơ sở sinh lí là sự phân giải các hệ thống liên hệ thần kinh tạm thời đã có và kết hợp thành những hệ thống mới trên vỏ não.

– Tưởng tượng là một quá trình tâm lí, có nguồn gốc xã hội, được hình thành và phát triển trong lao động và do đó chỉ có ở con người mà thôi.

4.2.2.2. Các loại tưởng tượng

Tưởng tưởng có hai đặc điểm đặc trưng là tính tích cực và tính hiệu quả. Căn cứ vào hai đặc điểm đó, người ta chia tưởng tượng thành các loại: tưởng tượng tích cực và tiêu cực, ước mơ và lí tướng.

  • Tưởng tượng tiêu cực là loại tướng tượng tạo ra những hình ảnh không được thể hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình của hành vi không được thực hiện và luôn luôn không thể thực hiện được.

Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra một cách có chủ định, nhưng không gắn liền với ý chí thể hiện những hình ảnh tưởng tượng trong đời sống – đó là sự mơ mộng.

Tưởng tượng tiêu cực cũng có thể xảy ra một cách không chủ định. Điều này chủ yếu xảy ra khi con người ở trong tình trạng không hoạt động, trong giấc ngủ (chiêm bao), trong trạng thái nửa thức, nửa ngủ, trong trạng thái xúc động, trong trạng thái bệnh lí của ý thức (ảo giác, hoang tưởng).

  • Tưởng tượng tích cực. Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người, thì đó là tưởng tượng tích cực. Tưởng tượng tích cực gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo.

Tưởng tượng tái tạo là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh chỉ là mới đối với cá nhân người tưởng tượng và được dựa trên cơ sở sự mô tả của người khác. Ví dụ, tưởng tượng của học sinh về những điều được mô tả trong sách giáo khoa địa lí, lịch sử hay văn học v.v…

Tưởng tượng sáng tạo là loại tưởng tượng xây dựng nên hình ảnh mới một cách độc lập, những hình ảnh này là mới đối với cả cá nhân lẫn với xã hội, chúng được hiện thực hoá trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị. Nảy sinh trong lao động, tưởng tượng sáng tạo là một mặt không thể thiếu được của mọi sự sáng tạo: sáng tạo Kĩ thuật, sáng tạo nghệ thuật v.v…

  • Ước mơ và lí tưởng là một loại tưởng tượng được hướng về tương lai, nó biểu hiện những mong muốn, ước ao của con người. Ước mơ là một loại tưởng tượng sáng tạo, nhưng không trực tiếp hướng vào hoạt động trong hiện tại. Ước mơ có lợi khi nó thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực. Còn ước mơ có hại là ước mơ không dựa trên cơ sở những khả năng thực tế, chỉ là những mộng tưởng, không bao giờ trở thành hiện thực, do đó có thể làm cho cá nhân thất vọng, chán nản.

Lí tưởng có tính tích cực và tính hiện thực cao hơn ước mơ. Lí tưởng là một hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể của tương lai mong muốn. Nó là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người vươn lên giành lấy tương lai.

Như vậy, tưởng tượng là một thành phần của nhân cách. Giáo dục, bồi dưỡng trí tưởng tượng cho học sinh không chỉ là nhiệm vụ của trí dục, mà cả của đức dục nữa.

4.2.2.3. Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng

Các hình ảnh mới của tưởng tượng được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau. Sau đây là những cách (thủ thuật) cơ bản nhất.

* Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hay các thành phần của sự vật: ví dụ, hình tượng người khổng lồ hay

tí hon; Phật trăm mắt, trăm tay v.v..là những hình ảnh mới của tưởng tượng được tạo ra bằng cách này.

  • Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật: ví dụ, các hình ảnh trong tranh biếm hoạ đã được sáng tạo theo cách này (chẳng hạn để chế diễu người tham ăn, người ta vẽ cái mồm to gần hết cả khuôn mặt). Một biến dạng của cách này là phương pháp cường điệu.
  • Chắp ghép, (kết dính): là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới, ví dụ hình ảnh con rồng của Việt Nam, hình ảnh đầu người mình cá, hình ảnh con nhân sư (sphinx). Trong hình ảnh mới, các bộ phận hợp thành vẫn giữ nguyên, không bị thay đổi, chế biến, chúng chỉ được chắp ghép với nhau một cách đơn giản mà thôi.
  • Liên hợp: phương pháp này có vẻ giống với phương pháp chắp ghép. Nhưng sự thật thì nó không phải là sự kết hợp máy móc, giản đơn các yếu tố khởi đầu. Khi tham gia vào một hình ảnh mới, các yếu tố ban đầu bị cải tổ, biến đổi và nằm trong những mối tương quan mới. Liên hợp là một sự tổng hợp sáng tạo, chứ không phải là sự tổng hợp đơn giản các yếu tố đã biết. Phương pháp này được sử dụng trong văn học, nghệ thuật để xây dựng các hình tượng văn học, nghệ thuật; trong khoa học kĩ thuật để thiết kế các công cụ, thiết bị kĩ thuật (ví dụ, xe điện bánh hơi là kết quả của sự liên hợp ô tô với xe điên; thuỷ phi cơ: tầu bay với tàu thuỷ…).
  • Điển hình hóa: là phương pháp tạo thành hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó các thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như là một đại diện của giai cấp hay tầng lớp xã hội nhất định được biểu hiện trong hình ảnh mới này. Phương pháp này được dùng nhiều trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật, trong điều khắc. Yếu tố mấu chốt của phương pháp điển hình hoá là sự tổng hợp sáng tạo mang tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách.
  • Loại suy (tương tự, mô phỏng): từ buổi bình minh của loài người, tổ tiên ta đã biết sáng chế ra những công cụ lao động đơn giản nhất từ sự tương tự của những thao tác của đôi bàn tay với những dụng cụ lao động sẽ được tạo ra. Trước khi tạo ra các dụng cụ lao động thực, con người đã thấy được sự tương tự đó ở trong óc. Bằng cách loại suy như vậy mà các dụng cụ lao động bắt chước các thao tác lao động của đôi bàn tay đã được ra đời.

Ngày nay, ngành phỏng sinh học ra đời là một bước phát triển cao của phương pháp loại suy trong quá trình sáng chế, phát minh của các nhà khoa học kĩ thuật (Ví dụ, do sự bắt chước cơ chế chìm– nổi của cá mà tầu ngầm được ra đời).

Như vậy, tưởng tượng và tư duy có quan hệ mật thiết với nhau. Chúng có những điểm giống nhau và những điểm khác nhau. Tưởng tượng và tư duy đều phản ánh cái mới, chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân và đều mang tính có vấn đề, nghĩa là đều được kích thích hởi hoàn cảnh có vấn đề. Do đó, chúng đều là mức độ cao của hoạt động nhận thức – mức độ lí tính.

Khi con ngươi đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề – nguồn khởi đầu của hoạt động, thì sẽ có hai hệ thống phản ánh đi trước của ý thức đối với kết quả của hoạt động đó: hệ thống được tổ chức chặt chẽ của các hình ảnh và hệ thống được cải tổ chặt chẽ của các khái niệm. Khả năng lựa chọn và kết hợp các hình ảnh là cơ sở của tưởng tượng, khả năng kết hợp các khái niệm theo một cách mới là cơ sở của tư duy. Thường thì hoạt động này diễn ra cùng một lúc ở cả hai “tầng”, bởi vì hai hệ thống hình ảnh và khái niệm có liên quan chặt chẽ với nhau. Ví dụ sự lựa chọn một phương thức hoạt động được thực hiện bằng những phán đoán lôgic gắn liền với những biểu tượng sáng rõ về việc hoạt động đó sẽ được thực hiện như thế nào.

Vậy đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề thì khi nào ta tư duy, khi nào ta tưởng tượng? Điều này tuỳ thuộc vào tính bất định (không xác định, không rõ ràng) của hoàn cảnh có vấn đề nhiều hay ít. Nếu những tài liệu khởi đầu của nhiệm vụ là rõ ràng, sáng tỏ, thì quá trình giải quyết nhiệm vụ chủ yếu được tuân theo những quy luật của tư duy. Còn khi hoàn cảnh có vấn đề mang tính chất bất định lớn, những tài liệu khởi đầu khó được phân tích một cách chính xác, thì quá trình giải quyết nhiệm vụ diễn ra theo cơ chế tưởng tượng.

Tưởng tượng hoàn toàn không cần thiết đối với các hiện tượng mà ở đó các quy luật cơ bản của chúng đã được làm sáng tỏ. Ngược lại, khi mà chúng ta chỉ có những thông tin gần đúng về hoàn cảnh, khó có thể dùng tư duy để giải đáp, thì tưởng tượng lại là cần thiết. Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ nó cho phép tự đi đến quyết định và tìm ra được lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề ngay cả khi không có đủ những tri thức cần thiết để tư duy. Tưởng tượng cho phép ta “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn cứ hình dung được kết quả cuối cùng. Nhưng chỗ yếu của con đường giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng cũng chính là ở chỗ đó. Con đường giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng là con đường không có sự chính xác, chặt chẽ một cách đầy đủ.

4.2.3. Ngôn ngữ

4.2.3.1. Khái niệm về ngôn ngữ

Đời sống xã hội và sự lao động phối hợp cùng nhau của con người đã dẫn đến sự tất yếu phải thường xuyên có sự giao tiếp giữa con người với con người. Trong khi giao tiếp với nhau, con người sử dụng các từ ngữ theo những quy tắc ngữ pháp nhất định của một thứ tiếng nói nào đó, ví dụ: tiếng Nga, tiếng Nhật… Tiếng nói là một hệ thống các kí hiệu từ ngữ có chức năng là một phương tiện của giao tiếp, một công cụ của tư duy. Nó là một hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của xã hội, là một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của loài người.

Tiếng nói là đối tượng của khoa học về tiếng. Tiếng nói gồm hai bộ phận: từ vựng, các ý nghĩa của từ và ngữ pháp

– là một hệ thống các quy tắc quy định về sự ghép các từ thành câu. Bất cứ một thứ tiếng nói nào cũng chứa đựng hai phạm trù: phạm trù ngữ pháp – là một hệ thống các quy tắc quy định việc thành lập từ và câu, phạm trù này đặc trưng riêng cho từng thứ tiếng (ngữ pháp tiếng Việt khác với ngữ pháp tiếng Anh v.v…) và phạm trù lôgic – là quy luật đúng đắn của con người, nó chung cho cả loài người, vì vậy tuy dùng các thứ tiếng khác nhau, các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.

Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ tiếng nói nào đó đểgiao tiếp. Nói cách khác, ngôn ngữ là sự giao tiếp bằng tiếng nói.

Ngôn ngữ là một quá trình tâm lí, nó là đối tượng của tâm lí học. Ngôn ngữ đặc trưng cho từng người. Sự khác biệt cá nhân về ngôn ngữ thể hiện ở cách phát âm, câu trúc của câu, sự lựa chọn từ.

Tuy ngôn ngữ và tiếng nói khác nhau như vậy, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau: không có một thứ tiếng nói nào lại tồn tại và phát triển bên ngoài quá trình ngôn ngữ cả (nếu trường hợp đó xẩy ra, thì tiếng nói sẽ trở thành “tử ngữ”), ngược lại quá trình ngôn ngữ cũng không thể có được nếu không dựa vào một thứ tiếng nói nhất định.

4.2.3.2. Các chức năng của ngôn ngữ

Trong cuộc sống của con người, ngôn ngữ có những chức năng cơ bản sau đây:

  • Chức năng chỉ nghĩa: Chức năng này làm cho ngôn ngữ của con người khác với sự thông tin ở con vật. Con người dùng quá trình ngôn ngữ để chỉ chính bản thân sự vật, hiện tượng (bởi vì từ mà ta dùng trong quá trình ngôn ngữ được gắn chặt với hiện tượng và sự vật mà từ ấy chỉ). Còn những âm thanh do con vật phát ra không chỉ các sự vật, hiện tượng, mà chúng chỉ biểu thị trạng thái sợ hãi, đói khát, thoả mãn…do tính chất giống nhau của các thể hiện ấy ở tất cả các cá thể trong cùng một loài, “ngôn ngữ” của động vật không có nội dung đối tượng.
  • Chức năng khái quát hoá. Từ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng lẻ, mà nó chỉ một loạt các sự vật, hiện tượng có chung những thuộc tính bản chất. Chức năng này biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ với tư duy. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại của tư tưởng, ý nghĩ, nó phù hợp nhất đối với sự tư duy trừu tượng – lôgic.
  • Chức năng thông báo: Nếu hai chức năng trên nói lên mặt bên trong của ngôn ngữ, thì chức năng thông báo nói lên mặt bên ngoài của ngôn ngữ. Chức năng thông báo lại bao gồm ba mặt: thông tin, biểu cảm và thúc đẩy hành động. Có thể nói tóm gọn lại là: ngôn ngữ có hai chức năng chính: công cụ của giao tiếp và công cụ của tư duy. Trong phần này chúng ta sẽ chỉ đi sâu vào chức năng thứ hai mà thôi.

4.2.3.3. Các loại ngôn ngữ

Một cách khái quát, có thể chia ngôn ngữ làm hai loại: ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong.

  1. Ngôn ngữ bên ngoài là thứ ngôn ngữ hướng vào người khác, nó được dùng để truyền đạt và tiếp thu tư tưởng. Ngôn ngữ bên ngoài lại gồm hai thứ: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
  • Ngôn ngữ nói: là ngôn ngữ được hướng vào người khác, được biểu hiện bằng âm thanh và được thu nhận bằng phân tích quan thính giác. Ngôn ngữ nói là hình thức cổ sơ nhất của lịch sử loài người. Trong sự phát sinh cá thể, ngôn ngữ nói cũng có trước. Ngôn ngữ nói cũng lại có hai loại: đối thoại và độc thoại.

Ngôn ngữ nói đối thoại: là loại ngôn ngữ giữa hai hay một số người với nhau, trong đó lúc này thì người này nói và người kia nghe, lúc khác thì người kia nói và người này nghe. Loại ngôn ngữ này có những đặc điểm tâm lí riêng: trong quá trình đối thoại có sự thay đổi vị trí và vai trò của mỗi bên, chính sự thay đổi này có tác dụng phụ trợ, làm cho hai bên dễ hiểu nhau hơn; người nói và người nghe luôn luôn được nghe và thường được trông thấy nhau (nếu là đối thoại trực tiếp), nên ngoài tiếng nói ra còn có các phương tiện phụ khác bổ trợ cho ngôn ngữ, như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt (nếu đối thoại gián tiếp, ví dụ qua điện thoại, thì không có đặc điểm này) và do đó người nói có thể thấy được trực tiếp phản ứng của người nghe, từ đó có thể điều chỉnh lời nói của mình.

Ngôn ngữ nói độc thoại là loại ngôn ngữ mà trong đó một người nói và những người khác nghe. Ví dụ, đọc diễn

văn, đọc báo cáo hay giảng bài…Đó là loại ngôn ngữ liên tục, một chiều, không có sự phụ trợ ngược trở lại (trong trường hợp độc thoại gián tiếp).

Ngôn ngữ nói độc thoại đòi hỏi một số yêu cầu ngặt nghèo hơn so với ngôn ngữ nói đối thoại: người nói phải có sự chuẩn bị trước về nội dung, hình thức và kết cấu của những điều định nói, nhiều khi phải tìm hiểu trước về đối tượng (những người nghe). Ngôn ngữ phải trong sáng, dễ hiểu, chính xác. Ngôn ngữ nói độc thoại gây những căng thẳng nhất định cho cả người nói lẫn người nghe: người nói vừa phải chuẩn bị trước như đã nói ở trên, vừa phải theo dõi ngôn ngữ của chính mình và phản ứng của người nghe; còn người nghe thì phải tập trung chú ý trong một thời gian dài.

  • Ngôn ngữ viết là thứ ngôn ngữ hướng vào người khác, được biểu hiện bằng các kí hiệu chữ viết và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thị giác. Ngôn ngữ viết cho phép con người tiếp xúc với nhau một cách gián tiếp, trong những khoảng cách không gian và thời gian lớn. Ngôn ngữ viết có những yêu cầu nhất định đối với người viết lẫn người đọc. Người viết không thể sử dụng các phương tiện hỗ trợ như giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…; không phải lúc nào họ cũng biết trước được phản ứng của người đọc đối với điều mình viết ra, vì không nghe, không nhìn thấy độc giả và thường cũng không biết gì về họ cả, mà độc giả lại rất đông, nhiều ngành, nhiều giới nên càng khó. Về phía người đọc cũng có những khó khăn nhất định, họ không thể bày tỏ ý kiến của mình một cách trực tiếp. Để khắc phục những khó khăn trên, ngôn ngữ viết có những yêu cầu chặt chẽ hơn cả: phải viết tỉ mỉ, chính xác, phải tuân thủ đầy đủ các quy tắc ngữ pháp, chính tả và lôgic.

Ngôn ngữ viết cũng có hai loại: đối thoại và độc thoại, nhưng đối thoại một cách gián tiếp, ví dụ như thư từ; còn độc thoại như sách, báo chẳng hạn.

  1. Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ cho mình, hướng vào chính mình, nó giúp cho con người suy nghĩ được, tự điều chỉnh, tự giáo dục được. Vì vậy, ngôn ngữ bên trong không phải là phương tiện của giao tiếp. Nó là cái vỏ từ ngữ của tư duy. Khác với ngôn ngữ bên ngoài, ngôn ngữ bên trong có một số đặc điểm độc đáo sau đây:

– Không phát ra âm thanh. Nhưng đặc điểm này chưa nói lên hết được đặc trưng của ngôn ngữ bên trong. Vì vậy, nếu căn cứ vào đặc điểm này để gọi ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ thầm thì không chính xác, bởi lẽ ngôn ngữ không phát thành tiếng (thầm) chưa hẳn đã là ngôn ngữ bên trong thực sự.

– Bao giờ cũng được rút gọn, cô đọng: thường cả một câu hoàn chỉnh được rút ngắn chỉ còn một từ mà thôi (chủ ngữ và vị ngữ).

– Tồn tại dưới dạng những cảm giác vận động, do cơ chế đặc biệt của nó quy định.

Tuy khác biệt như vậy, nhưng ngôn ngữ bên trong có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ bên ngoài: ngôn ngữ bên ngoài là nguồn gốc của ngôn ngữ bên trong, nó có trước ngôn ngữ bên trong, ngôn ngữ bên trong là kết quả nội tâm hoá của ngôn ngữ bên ngoài. Theo quan niệm hiện đại thì ngôn ngữ bên trong có hai mức độ: ngôn ngữ nói bên trong và ngôn ngữ bên trong thực sự. Ở mức độ đầu thì ngôn ngữ bên trong vẫn giữ nguyên cấu trúc của ngôn ngữ bên ngoài, chỉ không phát ra thành tiếng mà thôi. Ở mật độ thứ hai thì ngôn ngữ bên trong mới có đầy đủ các đặc điểm nêu trên.

4.2.3.4. Các đặc điểm cá nhân về ngôn ngữ

  1. a) Các đặc điểm cá nhân về mặt giao tiếp

  • Tính cởi mở: Có người cởi mở, có người thiếu cởi mở. Cởi mở là sự thể hiện tối ưu của nhu cầu giao tiếp ở con người. Nhưng không phải cứ có nhu cầu là sẽ cởi mở. Tính cởi mở có hai dấu hiệu đặc trưng là: có tính chọn lọc và có sự phong phú của nội tâm.
  • Tính kín đáo (thiếu cởi mở) là tính không hay trao đổi tâm tư với người khác vì không có nhu cầu, không có thói quen giao tiếp, chứ không phải là không tin người. Tính kín đáo khác tính dấu diếm. Dấu diếm là không tin người khác và khinh thường người khác.
  • Tính hay nói (“lắm lời”) là tính không kiềm chế được hoạt động ngôn ngữ; ngôn ngữ không có tính lựa chọn, đồng thời lại không có sự phong phú của nội tâm.
  • Tính hùng biện: đặc điểm này thường thể hiện ở các nhà hoạt động xã hội, các nhà diễn thuyết, thầy giáo v..Đặc điểm nổi bật của tính hùng biện là sự thống nhất giữa ý nghĩ và lời nói. Ý nghĩ biểu đạt được mục đích rõ ràng, mạch lạc có hình ảnh và có sức thuyết phục trong lời nói. Tính mục đích và tính thuyết phục là hai dấu hiệu đặc trưng của hùng hiện. Tránh nhầm lẫn hùng hiện với “ngôn ngữ hoa mĩ”, đó là một thứ ngôn ngữ hào nhoáng, bóng bẩy một cách hình thức, không hẳn đã có nội dung.
  1. b) Nhân cách của con người và phong cách ngôn ngữ

Giữa đặc điểm nhân cách của con người và phương thức sử dụng ngôn ngữ của họ có sự liên quan mật thiết với

nhau. Qua ngôn ngữ của một ai đó, ta có thể hiểu được, đánh giá được phần nào nhân cách của họ, có thể biết được xu hướng, hứng thú của họ. Chính các đặc điểm nhân cách đã quy định ở mỗi người một phong cách ngôn ngữ riêng: phong cách sinh hoạt, phong cách văn nghệ, phong cách công tác, phong cách khoa học.

4.2.3.5. Vai trò của ngôn ngữ trong đời sống con người

Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động của con người. Nhờ có sự tham gia của ngôn ngữ vào việc tổ chức, điều chỉnh các hoạt động tâm lí mà tâm lí của con người khác hẳn về chất so với tâm lí của loài vật, đó là một công cụ góp phần làm cho tâm lí người mang tính mục đích, tính xã hội và tính khái quát.

Ngoài chức năng là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của tư duy và có ảnh hưởng quan trọng đến toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.

Bằng tác động của ngôn ngữ có thể gây nên những cảm giác trực tiếp ở con người. Ví dụ, về mùa đông nghe người khác xuýt xoa “Trời lạnh quá!” ta cũng thấy lạnh người. Mới nghe thấy từ “chua quá” ta cũng có thể “nhỏ rãi”! Dưới tác động của ngôn ngữ có thể làm thay đổi ngưỡng cảm giác và tính nhạy cảm của cảm giác. Sự tham gia của hệ thống tín hiệu thứ hai vào quá trình tri giác giúp cho các cảm giác thành phần được tổ hợp lại thành một chỉnh thể, một hình tượng trọn vẹn và gắn liền với một tên gọi cụ thể. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể tiến hành sự tri giác có chủ định (có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp), sự quan sát lâu dài đối với các sự vật, hiện tượng.

Ngôn ngữ cũng tham gia tích cực vào hoạt động trí nhớ, làm cho việc ghi nhớ, gìn giữ và nhớ lại của con người trở nên có chủ định, có ý nghĩa (chứ không máy móc). Đối với nhận thức lí tính thì ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy của con người, làm cho tư duy của họ khác về chất so với tư duy của con vật – nó mang tính gián tiếp, trừu tượng và khái quát. Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người tiếp thu, lĩnh hội nền văn hoá xã hội, nâng cao hiệu biệt và kinh nghiệm của mình. Ngôn ngữ giúp con người chính xác hoá các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy sinh, tách ra trong chúng những mặt cơ bản nhất, gắn chúng lại với nhau, cố định chúng lại bằng từ, giữ chúng lại trong trí nhớ. Nói tóm lại? ngôn ngữ làm cho tưởng tượng trở thành một quá trình có ý thức và được điều khiển.

TÀI LIỆU CẦN ĐỌC THÊM

  1. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ. Tâm lí học, tập I, NXB Giáo dục, 1988 (Chương IV: “Hoạt động nhận thức”, từ trang 117 đến 186)
  2. Trần Trọng Thuỷ, Khoa học chẩn đoán tâm lí, NXB Giáo dục, 1992 (Phần II: “Các phương pháp chẩn đoán trí tuệ”, từ trang 70 đến trang 129).
  3. Daniel Goleman, Trí tuệ xúc cảm (dịch), NXB Khoa học xã hội, 2002.
  4. Howard Gardner, Cơ cấu trí khôn, Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn (dịch). NXB Giáo dục, 1997:

CÂU HỎI ÔN TẬP

  1. Cảm giác và tri giác giống và khác nhau như thế nào? Cảm giác và tri giác có vai trò như thế nào trong đời sống và trong dạy học?
  2. Tại sao tư duy lại được xếp vào mức độ nhận thức lí tính? Nó có những đặc điểm gì? Một quá trình tư duy có những giai đoạn và thao tác nào?
  3. Hãy chứng minh ý kiến của M. Gorki cho rằng, về bản chất của mình, tưởng tượng cũng là tư duy mà thôi, nhưng là sự tư duy chủ yếu bằng các hình ảnh.
  4. Ngôn ngữ là gì? Nó có quan hệ và vai trò như thế nào với hoạt động nhận thức của con người? Có những loại ngôn ngữ nào? Đặc điểm của mỗi loại?

THỰC HÀNH

  1. Hãy tìm hiểu khả năng quan sát của học sinh bằng phương pháp so sánh hai bức tranh.

Dụng cụ cần thiết:

– Hai hoặc ba bộ tranh có chủ đề đơn giản và số lượng các chi tiết không nhiều lắm. Ví dụ, cảnh một sân kho hợp tác xã. Trong mỗi bộ có hai bức tranh giống nhau về mọi chi tiết, trừ những chi tiết đã dự định từ trước: 10 chi tiết không có trong bức tranh kia, hoặc được phân bố khác đi.

– Đồng hồ đeo tay (nếu có đồng hồ bấm giây thì càng tốt).

– Một bảng liệt kê những khác biệt trong hai bức tranh sẽ được đưa ra, ví dụ như hai bức tranh sau (Hình 4 và 5).

Cách tiến hành

Đưa cho học sinh xem bức tranh thứ nhất, yêu cầu quan sát kĩ. Sau 1 phút thì cất bức tranh thứ nhất đi và đưa ra bức tranh thứ hai. Yêu cầu học sinh xác định tất cả mọi khác biệt: có những vật nào mới không có trong bức tranh thứ nhất và những vật nào không ở những vị trí mà nó đã có trong bức tranh thứ nhất. Thời gian xem bức tranh thứ hai không hạn chế.

Đối chiếu với bảng liệt kê những khác biệt để đánh giá các nhận xét của học sinh. Nếu học sinh nêu rõ những khác biệt không có trong bảng liệt kê thì ghi lại.

Phân tích kết quả

Tính số lượng những chi tiết (khác biệt) được phát hiện đúng. Chú ý những trường hợp học sinh nêu ra những khác biệt không có trong tranh.

  1. Nghiên cứu trí tưởng tượng sáng tạo của học sinh bằng thực nghiệm.

Dụng cụ cần thiết

Một số các từ, mỗi từ 2 chữ. Ví dụ: Mùa xuân, Hạnh phúc, con người.

Cách tiến hành

Yêu cầu học sinh trong vòng 10 phút hãy đặt các câu, càng nhiều càng tốt, sao cho mỗi câu đều chứa 3 từ đã

cho.

Cách đánh giá

–Câu có cả 3 từ rõ nghĩa, chính xác, gọn: 6 điểm

– Câu có cả 3 từ rõ nghĩa, nhưng dài: 5 điểm

– Câu có cả 3 từ nhưng nghĩa chủ yếu chỉ ở 2 từ, còn các từ kia ít ăn nhập: 4 điểm

– Câu có cả 3 từ, nhưng nghĩa không rõ ràng: 3 điểm

– Câu có cả 3 từ rời rạc nghĩa không ăn nhập: 1 điểm

– Câu có cả 3 từ hoàn toàn không ăn nhập: 0 điểm

Nếu câu sau gần giống câu trước, hoặc kết cấu giống nhau, thì câu sau chỉ được 1/2 số điểm của câu trước.

Tính tổng số điểm đạt được. So sánh kết quả đạt được ở những học sinh khác nhau.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Gia sư dạy kèm toán lý hóa anh cấp 1 2 3 tại nhà học sinh uy tín. Trung Tâm Dạy Kèm Trọng Tín

Trung tâm gia sư trọng tín, tập thể giáo viên dạy kèm dạy thêm Toán Lý Hóa từ lớp 6 đến 12 LTĐH tại Tphcm. Tuyển và cung cấp gia sư, giáo viên, sinh viên giỏi uy tín dạy kèm tại nhà Toán Lý Hóa Anh Sinh Văn ... Lớp 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 LTDH tại TPHCM. Tìm giáo viên sinh viên gia sư dạy kèm tại nhà ở các quận trên Tphcm : quận 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12, Bình Tân, Bình Chánh, Tân Bình, Thủ Đức, Củ Chi, Phú Nhuận, Nhà Bè, Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Thạnh, Tân Phú, Bình Dương. Trung Tâm Gia Sư Trọng Tín là nơi dạy thêm, chỗ học thêm, địa chỉ dạy thêm toán lý hóa anh lớp 6 7 8 9 10 11 12 tại Tphcm. Tìm gia sư, giáo viên, sinh viên dạy kèm tại nhà liên hệ : ĐT: 0946321481, 0946069661, 0906873650, (028)66582811 Thầy Tính, Cô Oanh.
error: Content is protected !!
Chat hỗ trợ
Chat ngay