0946 069 661 | 0946 321 481 | Ôn cấp tốc THPT toán | Học tại trung tâm

TRUNG TÂM DẠY KÈM TRỌNG TÍN

GIỚI THIỆU GIA SƯ DẠY KÈM TẠI NHÀ
CÓ LỚP HỌC TOÁN, LÍ, HOÁ TẠI TRUNG TÂM

Giáo viên dạy kèm lớp 1 đến 12, ôn thi vào lớp 10, THPT
Gia sư giỏi kinh nghiệm dạy kèm tại nhà uy tín tại Tp.HCM

CUNG CẤP GIÁO VIÊN DẠY KÈM

LỚP 1->12, ÔN THI LỚP 10, THPT

Dạy kèm tại nhà học sinh

Đăng ký dạy kèm

Lớp dạy kèm mới

............................. 0946 321 481

LỚP HỌC TẠI TRUNG TÂM

TOÁN, LÍ, HOÁ 6->12

Học tại trung tâm  Thời khoá biểu  Học phí ............................. 0946 069 661

 Chào mừng quý khách đến với website: giasutrongtin.vn chạm tay vào số điện thoại để gọi, chân thành cảm ơn quý khách và hẹn gặp lại 

TẬN TÂM, HIỆU QUẢ

 Bạn đang lo lắng kết quả học tập của con mình?

Bạn cần tìm giáo viên dạy kèm tại nhà?

 Giáo viên dạy kèm hiệu quả trong thời gian ngắn. 

Có lớp toán, lí, hoá 6 đến 12 tại trung tâm.

Zalo: 0946069661

Trung Tâm Dạy Kèm Trọng Tín >> Tâm lý lứa tuổi >> TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

CHƯƠNG 1: TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC – TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Đời sống tâm lí của con người vô cùng phong phú và diệu kì, được loài người quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại. Từ những tư tưởng sơ khai về tâm lí, khoa học tâm lí đã hình thành, phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người.

1.1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ HỌC

1.1.1. Đặc điểm của tâm lí học so với các khoa học khác

Là một khoa học, tâm lí học có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu xác định. Tâm lí học vừa có những đặc điểm chung vừa có những đặc điểm riêng so với các khoa học khác nghiên cứu về con người.

  1. a) Tâm lí học nghiên cứu các hiện tương tâm vừa gần gũi, cụ thể, gắn bó với con người vừa rất phức tập, trừu tượng

Từ lúc sinh ra, lớn lên, trưởng thành cho đến khi vĩnh biệt cõi đời, đời sống tâm lí con người luôn gắn bó gần gũi với con người, từ những hiện tượng cảm giác đầu tiên: nghe, nhìn, tri giác về thế giới, cảm xúc, trí nhớ, tư duy, cho đến tình cảm, ý thức, nhân cách… đều rất “hiện thực”, thường trực, vừa tiềm tàng, vừa sống động, linh hoạt muôn màu muôn vẻ ở mỗi con người. Các hiện tượng tâm lí vừa cụ thể, vừa trừu tượng, đan xen hòa quyện vào nhau khó có thể tách bạch một cách rạch ròi, khó có thể cân đo đong đếm như những hiện tượng vật chất khác, mặc dù xét đến cùng, tâm lí dù có trừu tượng đến đâu thì cũng sẽ bộc lộ qua cử chỉ, hành vi, cách nói năng muôn hình muôn vẻ.

  1. b) Tâm lí học là nơi hội tụ nhiều khoa học nghiên cứu đời sống tâm lí của con người

Là khoa học trung gian giữa khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết học và khoa học kĩ thuật, công nghệ, đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lí là những hiện tượng tinh thần nhưng nó không tồn tại một cách lơ lửng trừu tượng, phi vật chất, phi hiện thực mà nó gắn chặt với cơ sở sinh lí thần kinh, các quá trình sinh lí sinh hóa trên bộ não, thể hiện qua hệ thống hành vi; hoạt động của con người. Mặt khác, tâm lí của con người có nội dung, có bản chất xã hội, bị chế ước bởi các điều kiện kinh tế – xã hội và mang tính lịch sử. Vì thế, tâm lí học là nơi hội tụ, nơi giao thoa giữa hệ thống các khoa học về con người. Nói một cách hình ảnh và khiêm tốn hơn thì “tâm lí học là bông hoa lưỡng tính nảy sinh và phát triển trên hai mảnh đất tự nhiên và xã hội. Vì thế, trong thành tựu của tâm lí học, cũng như trong các phương pháp nghiên cứu của mình, tâm lí học đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc nhiều thành tựu và phương pháp của các khoa học có liên quan.

  1. Tâm lí học là bộ môn khoa học cơ bản trong hệ thống các khoa học về con người, đồng thời nó là bộ môn nghiệp vụ trong hệ thống các khoa học tham gia vào việc đào tạo con người, hình thành nhân cách con người nói chung và nhân cách nghề nghiệp nói riêng.

Không chỉ trong công việc đào tạo giáo viên, các nhà khoa học giáo dục mới sử dụng các thành tựu của tâm lí học mà trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như văn học, nghệ thuật, quân sự, pháp lí, các lĩnh vực y học, thương nghiệp, ngoại giao, du lịch, quảng cáo đều sử dụng các tri thức của khoa học tâm lí. Trong công tác tư tưởng chính trị, trong công việc quản lí lãnh đạo xã hội, trong việc giáo dục ở gia đình cung như tự giáo dục, tự rèn luyện ở mỗi con người, tâm lí học có vai trò đặc biệt quan trọng.

1.1.2. Đối tượng của tâm lí học

Từ “tâm lí học” ra đời từ trong lịch sử xa xưa của nhân loại. Trong tiếng La tinh từ “Psyche” là “linh hồn”. “tâm hồn”, “tinh thần”…; từ “logos” là “học thuyết”, “khoa học”. Vì thế tâm lí học “Psychologie” là khoa học về tâm hồn.

Trong tác phẩm “phép biện chứng của tự nhiên” Ph.Ănghen đã chỉ rõ thế giới luôn luôn vận động, mỗi khoa học nghiên cứu một dạng vận động của thế giới. Các khoa học phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên thuộc nhóm các khoa học tự nhiên. Các khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội thuộc nhóm các khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia được gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn: cơ – vật lí học, lí – sinh học, hóa – sinh học, tâm lí học… Trong đó tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào bộ não con người sinh ra hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần.

Như vậy: đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lí, các quy luật của hoạt động tâm lí là cơ chế tạo nên chúng.

1.1.3. Nhiệm vụ của tâm lí học

– Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lí, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí, cụ thể là nghiên cứu:

+ Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.

  • Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.
  • Tâm lí của con người hoạt động như thế nào.
  • Chức năng, vai trò của tâm lí đối với hoạt lộng của con người.

– Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lí học như sau:

  • Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số lượng và chất lượng.
  • Phát hiện các quy luật hình thành, phát triển tâm lí.
  • Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.

Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác.

1.1.4. Vị trí, ý nghĩa của tâm lí học

  1. a) Vị trí của tâm lí học

  • Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi bộ môn khoa học nghiên cứu một mặt nào đó của con người. Trong các khoa học nghiên cứu về con người thì tâm lí học chiếm một vị trí đặc biệt.

Tâm lí học có quan hệ với nhiều khoa học. Viện sĩ triết học Kêđơrôv (Liên Xô) cho rằng: tâm lí học nằm ở vị trí

trung tâm của hình tam giác có ba đỉnh là: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và triết học.

– Triết học cung cấp cơ sở lí luận và phương pháp luận chỉ đạo của tâm lí học, những nguyên tắc và phương hướng chung giải quyết những vấn đề cụ thể của mình. Ngược lại tâm lí học đóng góp nhiều thành tựu quan trọng làm cho triết học trở nên phong phú.

– Tâm lí học có quan hệ chặt chẽ với các khoa học tự nhiên: giải pháp sinh lí người, hoạt động thần kinh cấp cao, đó là cơ sở tự nhiên của các hiện tượng tâm lí. Các thành tựu của sinh vật học, di truyền học, tiến hóa luận… góp phần làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển tâm lí.

– Tâm lí học có quan hệ gắn bó hữu cơ với các khoa học xã hội và nhân văn, công nghệ, ngược lại nhiều thành tựu của tâm lí học được ứng dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, pháp luật, y học, văn hóa nghệ thuật, giáo dục, kinh doanh, du lịch v.v… Tâm lí học là cơ sở cho khoa học giáo dục. Trên cơ sở những thành tựu của tâm lí học và việc nghiên cứu các quy luật, cơ chế hình thành và phát triển tâm lí con người mà giáo dục học xây dựng nội dung, phương pháp dạy học và giáo dục. Ngược lại giáo dục học làm hiện thực hóa nội dung tâm lí cần hình thành và phát triển ở con người.

  1. b) Ý nghĩa của tâm lí học

Tâm lí học có ý nghĩa rất cơ bản về mặt lí luận, góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống lại các quan điểm phản khoa học về tâm lí con người, khẳng định quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

– Tâm lí học trực tiếp phục vụ cho sự nghiệp giáo dục.

– Tâm lí học giúp ta giải thích một cách khoa học những hiện tượng tâm lí xảy ra trong bản thân thình, ở người khác, trong cộng đồng, trong xã hội, nó là cơ sở của việc tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách và xây dựng tốt mối quan hệ giao lưu, quan hệ liên nhân cách, quan hệ xã hội. Ngoài ra tâm lí học còn có ý nghĩa thực tiễn với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

1.2. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ NGƯỜI

1.2.1. Tâm lí là gì?

Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn thường sử dụng từ “tâm lí” để nói về lòng người như “Anh A rất tâm lí”. “Chị B chuyện trò tâm tình cởi mở”… Với ý nghĩa là ở anh A, chị B có hiểu biết về lòng người, về tâm tư, nguyện vọng, tính tình… của con người. Đó là cách hiểu “tâm lí” ở cấp độ nhận thức thông thường. Đời sống tâm lí của con người bao hàm nhiều hiện tượng tâm lí phong phú, đa dạng, phức tạp từ cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng đến tình cảm ý chí, tính khí, năng lực, lí tưởng, niềm tin…

Trong tiếng Việt, thuật ngữ “tâm lí”, “tâm hồn” đã có từ lâu.

– Trong Từ điển Phật học của Đoàn Trọng Côn: “Tâm” là: lòng cảm động, là cái lí, ý thức, cái linh của con người nói chung về vũ trụ. “Lí” được hiểu là lí lẽ về “cái tâm”.

– Trong Từ điển tiếng Việt (1988) định nghĩa một cách tổng quát: tâm lí là ý nghĩ, tình cảm..: làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người.

– Theo nghĩa đời thường chữ “tâm” thường được dùng với các cụm từ: “tâm tư”, “tâm tình”, “tâm giao”, “tâm can”, “tâm địa”, “nhân tâm”, “thiện tâm”, “ác tâm”… có nghĩa như chữ “lòng”, thiên về tình cảm, còn chữ “hồn” thường để diễn đạt tư tưởng, tinh thần ý thức, ý chí… của con người. “Tâm hồn”, “tâm lí” luôn gắn liền.

1.2.2. Bản chất hiện tượng tâm lí người

Có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất hiện tượng tâm lí người:

– Quan niệm duy tâm cho rằng, tâm lí của con người là do thượng đế, do trời sinh ra và nhập vào thể xác con người. Tâm lí con người không phụ thuộc vào thế giới khách quan cũng như điều kiện thực tại của đời sống. Theo các nhà duy tâm chủ quan, tâm lí con người là một trạng thái tinh thần sẵn có ở trong mỗi con người, nó không gắn gì với thế giới bên ngoài và cũng không phụ thuộc vào cơ thể. Bằng phương pháp nội quan, mỗi con người tự quan sát, tự thể nghiệm tâm lí của bản thân, rồi suy diễn chủ quan sang tâm lí người khác (“lòng vả cũng như lòng sung”, “suy bụng ta ra bụng người”). Những quan niệm như thế không thể giải thích được bản chất hiện tượng tâm lí người, dẫn tới chỗ hiểu tâm lí người như một cái gì thần bí, không thể nghiên cứu được.

Quan niệm duy vật tầm thường cho rằng, tâm lí, tâm hồn cũng như mọi sự vật hiện tượng đều được cấu tạo từ vật chất, do vật chất trực tiếp sinh ra giống như gan tiết ra mật, họ đem đồng nhất cái vật lí, cái sinh lí với cái tâm lí, phủ nhận vai trò của chủ thể, tính tích cực, năng động của tâm lí, ý thức, phủ nhận bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí con người.

– Quan niệm khoa học về bản chất hiện tượng tâm lí người – đó là quan niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Quan niệm khoa học cho rằng: Tâm lí của con người là chức năng của bộ não, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não người thông qua chủ thể mỗi con người. Tâm lí người có bản chất xã hội là mang tính lịch sử.

  1. a) Tâm lí là chức năng của não

– Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, vật chất có trước, tâm lí, tinh thần có sau. Nhưng không phải cứ ở đâu có vật chất thì ở đó có tâm lí. Khoa học đã chứng minh rằng, hiện tượng tâm lí đơn giản nhất là cảm giác bắt đầu xuất hiện ở loài động vật có hệ thần kinh mấu hạch (giun). Đến khi có não xuất hiện thì mới có tâm lí ở bậc cao. Bộ não là một thứ vật chất đặc biệt, có tổ chức cao nhất. Ph.Ăngghen khẳng định: ý thức tư duy của chúng ta… là sản phẩm của vật chất của cơ quan nhục thể tức là não”. V.I.Lênin viết: “Tâm lí, ý thức… là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao, là chức năng của khối vật chất đặc biệt phức tạp là não người”.

– Hình ảnh tâm lí có được là do thế giới khách quan tác động vào các giác quan của cơ thể rồi chuyển lên não. Não hoạt động theo cơ chế phản xạ: từ đó sinh ra các hiện tượng tâm lí. Có hai loại phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Loại phản xạ không điều kiện là cơ sở của bản năng, còn phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lí của các hiện tượng tâm lí. Hoạt động phản xạ có điều kiện giúp cơ thể luôn thích ứng với môi trường thường xuyên thay đổi.

– Sự hình thành và thể hiện tâm lí con người chịu sự chi phối chặt chẽ của sự tác động qua lại giữa hai hệ thống tín (hệ tín hiệu thứ nhất và hệ tín hiệu thứ hai – ngôn ngữ). Trong đó, hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở sinh lí của hoạt động trực quan cảm tính, cảm xúc: còn hệ thống tin hiệu thứ hai là cơ sở sinh lí của tư duy, ngôn ngữ, ý thức, tình cảm và các chức năng tâm lí cấp cao của con người. Như vậy, các hiện tượng tâm lí người có cơ sở sinh lí là hệ thống chức năng thần kinh cử động của toàn bộ não, tâm lí là chức năng của não. Nói cách khác, về mặt cơ chế, thì tâm lí có cơ chế phản xạ của bộ não.

  1. b) Tâm lí người là sự phản ánh tính hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể

– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi vật chất đang vận động. Đó là sự tác động qua lại giữa hệ thống này lên hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) trên cả hai hệ thống. Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau: từ phán ánh có lí, hóa, sinh vật đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí.

– Tâm lí là một hình ảnh tinh thần do thế giới khách quan tác động vào một thứ vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất là bộ não. C. Mác viết: Tư tưởng, tâm lí chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có.

– Phản ánh tâm lí tạo ra hình ảnh tâm lí như “một bản sao” về thế giới. Hình ảnh tâm lí khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật… ở chỗ:

  • Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo. Thí dụ: Hình ảnh tâm lí về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ khác xa về chất hình ảnh vật lí có tính “chết cứng” của cuốn sách đó có ở trong gương.
  • Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể: mỗi cá nhân khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm của mình…vào trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan. Sở dĩ tâm lí người này khác tâm lí người kia là do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, thần kinh và não bộ; mỗi người có hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục, mức độ tích cực hoạt động và giao tiếp không như nhau trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.

Từ luận điểm trên khi nghiên cứu, cũng như khi hình thành và phát triển tâm lí của con người chúng ta cần quan tâm tới hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động, cần tổ chức hoạt động và mối quan hệ giao tiếp để hình thành và phát triển tâm lí. Trong dạy học, giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý tới việc sát đối tượng, phù hợp với đối tượng.

  1. c) Tâm lí người có bản chất xã hội – lịch sử

Tâm lí người khác xa về chất so với tâm lí của một số loài động vật cấp cao ở chỗ: tâm lí người có bản chất xã hội

và mang tính lịch sử.

Trước hết, tâm lí người có nguồn gốc xã hội. Trong thế giới, phần tự nhiên có ảnh hưởng đến tâm lí, nhưng phần xã hội trong thế giới: các quan hệ kinh tế, các quan hệ xã hội, đạo đức, pháp quyền, quan hệ con người – con người có

  • nghĩa quyết định tâm lí con người. Trên thực tế, những trường hợp trẻ em do động vật nuôi từ bé, tâm lí của các trẻ này không hơn hẳn tâm lí loài vật.

– Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và mối quan hệ giao tiếp của con người với tư cách là một chủ thể xã hội. Ngay cả phần tự nhiên ở con người (như đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, bộ não) cũng được xã hội hóa ở mức cao nhất. Ph.Ănghen viết: “Sự hình thành năm giác quan người là công việc của toàn bộ xã hội lịch sử…”. Vì thế, tâm lí người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người.

– Tâm lí của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa (biến thành cái riêng của mỗi con người) thông qua hoạt động, giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội.

– Tâm lí của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lí của mỗi con người bị chế ước bởi lịch sử của cá nhân và của cộng đồng.

Từ những luận điểm trên, cần chú ý nghiên cứu môi trường xã hội, các quan hệ xã hội để hình thành, phát triển tâm lí, cần tổ chức có hiệu quả các hoạt động đa dạng ở từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau, giúp cho con người lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành. phát triển tâm lí con người.

Tóm lại, khi xét bản chất hiện tượng tâm lí của con người. chúng ta có thể phân tích theo 3 phương diện:

Về nội dung: Tâm lí người là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan (chủ thể).

– Về cơ chế: Tâm lí người diễn ra theo cơ chế phản xạ của não.

– Về bản chất: Tâm lí người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.

1.2.3. Chức năng của tâm lí

Tâm lí giữ vai trò điều hành hoạt động, hành động; hành vi của con người tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động, sáng tạo của nó. Vì thế, tâm lí có các chức năng sau:

– Tâm lí có chức năng định hướng cho hoạt động thông qua hệ thống động cơ, động lực của hoạt động, hướng hoạt động vào mục đích xác định.

– Tâm lí điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động của con người có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định.

– Tâm lí giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với mục tiêu đã xác định, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho phép.

Nhờ có chức năng nói trên mà tâm lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới. Và chính trong quá trình đó con người nhận thức, cải tạo chính bản thân mình.

1.2.4. Phân loại hiện tượng tâm lí

Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lí:

  1. Căn cứ vào thời gian tồn tại và vị trí tương đối của các hiện tượng tâm lí trong nhân cách, người ta thường chia các hiện tượng tâm lí thành ba loại chính:

Các quá trình tâm lí, các trạng thái tâm lí, các thuộc tính tâm lí.

– Các quá trình tâm lí có mở đầu, diễn biến và kết thúc trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, bao gồm ba nhóm quá trình nhỏ:

  • Các quá trình nhận thức, gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng…
  • Các quá trình cảm xúc.
  • Các quá trình hành động ý chí.

– Các trạng thái tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc mở đầu, kết thúc không rõ ràng. Các trạng thái tâm lý như: chú ý, tâm trạng.

– Các thuộc tính tâm lí tương đối ổn định, khó hình thành, khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lí cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí bằng sơ đồ sau:

  1. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lí có ý thức với các hiện tượng tâm lí chưa được ý thức. Những hiện tượng tâm lí chưa ý thức là những hiện tượng tâm lí diễn ra mà ta không ý thức được về nó, hoặc dưới ý thức. Một số tác giả còn nói đến các hiện tượng “vô thức” nằm ngoài ý thức (ví dụ một số bản năng vô thức, nói lỡ lời, hành vi lỡ tay chân, ngủ mơ, mộng du v.v…), một số hiện tượng ở mức “tiềm thức” nằm sâu trong ý thức, thình thoảng nó được ý thức “chiếu rọi” tới trong những hoàn cảnh nhất định.
  2. Người ta còn phân biệt hiện tượng tâm lí thành:

– Các hiện tượng tâm lí sống động: thể hiện trong hành vi, hoạt động.

– Các hiện tượng tâm lí tiềm tàng: tích đọng trong sản phẩm của hoạt động.

  1. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lí cá nhân với các hiện tượng tâm lí xã hội (như: phong tục, tập quán, định hình xã hội, dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, “mốt” v.v…).

Tóm lại, thế giới tâm lí con người vô cùng đa dạng và phức tạp. Các hiện tượng tâm lí có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hóa cho nhau.

1.3. HIỆN TRẠNG, CẤU TRÚC VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA TÂM LÍ HỌC HIỆN ĐẠI

1.3.1. Hiện trạng của khoa học tâm lí

– Tâm lí học thoạt đầu nằm trong trong lịch sử triết học, mãi đến năm 1879 tâm lí học mới trở thành khoa học độc lập, gắn liền với tên tuổi nhà tâm lí học V.Vuntơ– người sáng lập ra phòng thực nghiệm tâm lí đầu tiên tại Laixích. Trước đó, V.Vuntơ quan niệm tâm lí học chỉ nghiên cứu trạng thái ý thức chủ quan của con người bằng phương pháp nội quan. Việc bế tắc của tâm lí học nội quan đã khiến V.Vuntơ thành lập phòng thí nghiệm tâm lí học. Tâm lí học lúc này tách ra khỏi triết học và nó trở thành một khoa học độc lập, chuyển từ phương pháp mô tả các hiện tượng tâm lí sang nghiên cứu tâm lí bằng thực nghiệm. Cùng với thời gian đó, vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, để cứu vớt tâm lí học ra khỏi tình trạng bế tắc, nhiều nhà tâm lí học tìm các hướng nghiên cứu khác nhau, trong đó có:

  • Tâm lí học hành vi.
  • Tâm lí học gestalt.
  • Phân tâm học.
  • Tâm lí học nhân văn.
  • Tâm lí học nhận thức.
  • Tâm lí học hoạt động.
  1. Tâm lí học hành vi: Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lí học Mĩ J.Oatsơn (1778– 1858) sáng lập. J.Oatsơn cho rằng, tâm lí không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức chủ quan mà nghiên cứu hành vi cá thể một cách khách quan.
  • con người cũng như ở động vật, hành vi là các phản ứng của cơ thể nhằm đáp lại kích thích của ngoại giới, thể hiện bằng công thức:
S R
(Stimulus Réaction)
Kích thích Phản ứng

 

Chủ nghĩa hành vi thú nhận hành vi của cơ thể do ngoại cảnh quyết định, song họ đã quan niệm một cách cơ học máy móc về hành vi, đem đánh đồng hành vi của con người với phản ứng của con vật, làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người.

  1. Tâm lí học gestalt (còn gọi là tâm lí học cấu trúc): Ra đời ở Đức cuối thế kỉ XIX gắn liền với tên tuổi của các nhà tâm lí học như Vecthaimơ Cơm, Côpca… Họ đi sâu nghiên cứu các quy luật vì tính ổn định, tính trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng sáng” của tư duy và giải thích: các quy luật đó đều do cấu trúc tiền định của bộ não quyết định: họ bỏ qua vai trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.
  1. Phân tâm học: Thuyết Phân tâm do S.Phrớt bác sĩ người Áo xây dựng nên, nhấn mạnh yếu tố bản năng trong con người, trong đó bản năng tính dục giữ vị trí trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lí và hành vi của con người. Phân tâm học đề cao quá mức yếu tố bản năng vô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội – lịch sử của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí con người với tâm lí loài vật, thể hiện quan điểm sinh vật hóa tâm lí con người.
  1. Tâm lí học nhân văn: Dòng phái này do C.Rôgiơ và A.Maxlâu sáng lập. Các nhà tâm lí học nhân văn cho rằng: bản chất con người vốn tốt đẹp, có lòng vị tha, cần phải đối xử với con người một cách cởi mở, tế nhị. Tâm lí học cần giúp con người tìm được bản ngã đích thật của mình để sống thoải mái, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lí học nhân văn đề cao những điều cảm nghiệm chủ quan của mỗi người, tách con người ra khỏi các mối quan hệ xã hội, họ chỉ chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.
  2. Tâm lí học nhận thức: Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lí học nhận thức là G.Piagiê (Thụy Sĩ) và Brunơ (trước ở Mĩ, sau đó ở Anh). Dòng phái này đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học về lĩnh vực tâm lí học nhận thức như khả năng tri giác, trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy… của con người. Đồng thời, họ đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lí ở những năm 50–60 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, dòng phái này có những hạn chế: họ coi nhận thức của con người như là sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự thay đổi vốn tri thức và câu trúc trí tuệ của chủ thể, nhằm cân bằng, thích nghi với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận thức.

Tất cả những dòng phái tâm lí học nói trên đều có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lí. Song, do những hạn chế lịch sử, do thiếu cơ sở phương pháp luận khoa học biến chứng, họ vẫn chưa

có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về hoạt động tâm lí của con người. Sự ra đời của tâm lí học macxit, hay còn gọi là tâm lí học hoạt động đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói trên và tập tục đưa tâm lí học lên đỉnh cao của sự phát triển.

  1. Tâm lí học hoạt động: Dòng phái tâm lí học này do các nhà tâm lí học Xô viết sáng lập, như L.X.Vưgôtxki (1894– 1934), X.L.Rubinstêin (1902– 1960), A.N.Lêônchiev (1903 – 1979). A.R.Luria (1902– 1977). Dòng phái này lấy triết học Mác–Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận xây dựng nên tâm lí học lịch sử người: coi tâm lí là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người, tâm lí người mang tính chủ thể và có bản chất xã hội, tâm lí người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế tâm lí học macxit được gọi là tâm lí học hoạt động”.

Ngày nay, bức tranh của tâm lí học thật muôn màu muôn vẻ, một mặt tâm lí học ngày càng khái quát những vấn đề lí luận sâu sắc: mặt khác ngày càng đi sâu vào thực tiễn, cùng với các khoa học khác góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục, góp phần vào việc phát huy cao độ nhân tố con người. Đội ngũ các nhà tâm lí họ ngày càng vững mạnh, kho tàng tri thức lí luận và phương pháp nghiên cứu, khả năng ứng dụng của tâm lí học ngày càng phong phú, thật sự đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại, của dân tộc và có tác dụng đến mỗi con người.

1.3.2. Các ngành của khoa học tâm lí

Từ lĩnh vực đầu tiên là tâm lí học đại cương, đến nay đã có 40–50 ngành khác nhau và các tiêu ngành của khoa học tâm lí

1.3.3. Các phương pháp nghiên cứu tâm lí

1.3.3.1. Các nguyên tắc phương pháp luận khoa học tâm lí

  1. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng.
  1. Nghiên tắc tiếp cận hoạt động – giao tiếp – nhân cách, tâm lí, ý thức.
  2. Nguyên tắc nghiên cứu tâm lí trong mối quan hệ với các hiện tượng khác và mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí với nhau.

1.3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu tâm lí

Có nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lí:

  1. a) Phương pháp quan sát

Quan sát là một loại tri giác có chủ định, cho phép chúng ta thu được nhiều tài liệu cụ thể, sinh động, trực quan, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người, do đó có nhiều ưu điểm, song nó cũng có những hạn chế như: mất thời gian, tốn nhiều công sức…

– Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện, quan sát bộ phận, quan sát có trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp…

– Muốn quan sát đạt kết quả cao, cần chú ý các yêu cầu sau:

  • Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
  • Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
  • Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống.
  • Ghi chép một cách khách quan và rút ra những nhận xét trung thực.
  1. b) Phương pháp trò chuyện (đàm thoại)

Đó là cách đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào câu trả lời của họ nhằm thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu.

Có thể đàm thoại trực tiếp hay gián tiếp tùy sự liên quan của đối tượng với điều ta cần biết, có thể hội thẳng hoặc hỏi đường vòng.

Khi đàm thoại muốn thu được tài liệu tốt nên:

– Xác định rõ mục đích, yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu).

– Tìm hiểu thông tin về một số đặc điểm của đối tượng.

– Có kế hoạch chủ động “lái hướng” câu chuyện.

– Cần linh hoạt, khéo léo, tế nhị khi “lái hướng” câu chuyện. vừa giữ được vẻ lôgic tự nhiên, vừa đáp ứng yêu cầu

của người nghiên cứu.

  1. c) Phương pháp điều tra

– Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lượng đối tượng được nghiên cứu, nhằm thu thập ý kiến của họ về một vấn đề nào đó. Có thể trả lời viết bằng hệ thống câu hỏi (enquête), hoặc trả lời miệng do người điều tra ghi lại (trực tiếp hoặc qua máy ghi âm).

 

– Câu hỏi dùng để điều tra, phỏng vấn có thể là câu hỏi đóng, tức là có nhiều đáp áp sẵn để đối tượng chọn một hoặc hai, cũng có thể là câu hỏi mở, đối tượng được hỏi tự trả lời.

 

– Dùng phương pháp điều tra trong một thời gian ngắn có thể thu thập được một số ý kiến của nhiều người nhưng là ý kiến chủ quan. Để có tài liệu tương đối chính xác phải điều tra nhiều lần và cần soạn kĩ bản hướng dẫn điều tra viên theo những yêu cầu cụ thể.

  1. d) Phương pháp thực nghiệm

Đây là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lí.

– Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần nghiên cứu, có thể lặp đi lặp lại nhiều lần đồ đặc định lượng, định tính một cách khách quan.

– Thường có hai loại thực nghiệm: trong phòng thí nghiệm và tự nhiên:

  • Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hướng bên ngoài, chủ động tạo ra những điêu kiện làm nảy sinh nội dung tâm lí cần nghiên cứu.
  • Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thường của cuộc sống. Khác với quan sát, năng thực nghiệm tự nhiên, nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra những biểu hiện và diễn biến tâm lí bằng cách khống chế một số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật các nhân tố cần thiết của thực nghiệm.

Người ta còn có thể phân biệt các thực nghiệm tự nhiên nhận định và thực nghiệm hình thành:

  • Thực nghiêm nhận định chủ yếu nêu lên thực trạng của vấn đề nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể.
  • Thực nghiệm hình thành (còn gọi là thực nghiệm giáo dục): trong đó tiến hành các tác động giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành một phẩm chất tâm lí nào đó ở nghiêm thể (người bị thực nghiệm).
  1. e) Test (trắc nghiệm)

– Test là một phép thứ để đo lường tâm lí đã được chuẩn hóa trên một số lượng người đủ là đại diện tiêu biểu.

– Ưu điểm cơ bản của test là:

+Test có khả năng làm cho hiện tượng tâm lí cần đo trực tiếp bộc lộ qua hành động giải bài tập test.

+Có khả năng tiến hành tương đối đơn giản bằng giấy bút, tranh vẽ.

  • Có khả năng lượng hóa, chuẩn hoá chỉ tiêu tâm lí cần đo. Tuy nhiên, test cũng có những khó khăn hạn chế:
  • Khó soạn thảo một bộ test đảm bảo tính chuẩn hóa.
  • Test chủ yếu cho ta biết kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả.

Vì thế, cần sử dụng test như là một trong các cách chẩn đoán tâm lí con người ở một thời điểm nhất định.

  1. g) Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động

Đó là phương pháp dựa vào sản phẩm của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lí của họ. Cần chú ý rằng, các kết quả hoạt động phải được xem xét trong mối liên hệ với các điều kiện tiến hành hoạt động.

  1. h) Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân

Thông qua việc phân tích tiểu sử cá nhân có thể nhận ra một số đặc điểm tâm lí của họ.

Tóm lại, các phương pháp nghiên cứu tâm lí người khá phong phú. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Muốn nghiên cứu một chức năng tâm lí một cách khoa học, khách quan, chính xác cần phải:

– Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp với vấn đề nghiên cứu.

– Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đem lại kết quả khoa học toàn diện.

TÀI LIỆU CẦN ĐỌC THÊM

  1. Phạm Minh Hạc (chủ biên). Tâm lí học, tập 1, NXB Giáo dục, 1988 (Chương I, từ trang 4 đến trang 24).
  2. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Tâm lí học, NXB Giáo dục, 1992 (Chương I, từ trang 3 đến trang 39).
  3. Nguyên Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996 (Chương 1: Tâm lí học là một khoa học, từ trang 5 đến trang 30).
  4. Phạm Minh Hạc, Nhập môn tâm lí học, NXB Giáo dục, 1980.

CÂU HỎI ÔN TẬP

  1. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu Tâm lí học.
  2. Bản chất hiện tượng tâm lí người.

BÀI TẬP

BÀI TẬP 1. Những khẳng định nào dưới đây nói lên quan niệm duy vật, và những khẳng định nào nói lên quan niệm duy tâm về tâm lí?

  1. Hoạt động tâm lí không phụ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài.
  2. Hoạt động tâm lí là thuộc tính của não bộ.
  3. Tâm lí là sự phản ánh hiện thực khách quan.
  4. Hoạt động tâm lí chỉ được nhận biết bằng cách tự quan sát.

BÀI TẬP 2. Những mệnh đề nào dưới đây nói lên sự phản ánh tâm lí?

  1. Tác động tích cực vào môi trường.
  2. Phán ánh hiện thực khách quan chỉ khi nào có sự tác động trực tiếp của nó.
  3. Cho ta sự sao chép gần đúng các sự vật và hiện tượng của hiện thực.
  4. Là sự chụp ảnh hiện thực xung quanh.
  5. Báo hiệu sự quan trọng sống còn đối với cơ thể.

BÀI TẬP 3. Những câu nào dưới đây nói lên quan điểm duy tâm, duy vật tầm thường hay duy vật biện chứng về mối tương quan của tâm lí và những thể hiện của nó trong hoạt động?

  1. Hiện tượng tâm lí có những thể hiện đa dạng bên ngoài.
  2. Mỗi sự thể hiện xác định bên ngoài đều tương ứng chặt chẽ với một hiện tượng tâm lí.
  3. Những hiện tượng tâm lí khác nhau có thể được thể hiện ra bên ngoài một cách giống nhau.
  4. Hiện tượng tâm lí có thể diễn ra mà không có một biểu hiện bên trong hoặc bên ngoài nào..:

BÀI TẬP 4. Những hiện tương nào dưới đây là hiện tượng tâm lí?

  1. Khóc đỏ cả mắt
  2. Thẹn đỏ mặt.
  3. Tập thể dục buổi sáng
  4. Hồi hộp khi thi.
  5. Giận cá chém thớt.

BÀI TẬP 5. Phân biệt những hiện tượng nào dưới đây là quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm lí

  1. Hồi hộp nghe thầy đọc kết quả thi lên lớp.
  2. Nghe và nghĩ về những điều thầy giảng.
  3. Chăm chú ghi chép bài đầy đủ.
  4. Chăm chỉ, trung thực, không quay cóp.
  5. Giải bài tập.

BÀI TẬP 6. Có thể rút ra kết luận gì qua câu chuyện dưới đây:

Có một bà rất sợ bệnh nhồi máu cơ tim. Bà cho rằng mình bị chứng bệnh này, nên nằm nhà cả ngày và cho mời các bác sĩ chuyên khoa tim mạch nổi tiếng đến khám bệnh. Các bác sĩ đều kết luận bà không có bệnh. Một bác sĩ có uy tín đã nói đùa rằng: “Bà không sợ chi hết! Nếu có chết sớm thì cũng chết cùng một lúc với tôi!” (ông này rất khỏe). Chẳng may 3 ngày sau thì ông ta bị chết đột ngột. Nghe tin ấy bà kia cũng chết luôn.

BÀI TẬP 7. Hãy làm một thí nghiệm nhỏ như sau.

Vẩy một giọt mực vào tờ giấy trắng, rồi gấp đôi tờ giấy lại để có 2 hình loang lổ đối xứng nhau qua đường gấp. Bạn hãy nhìn xem chúng giống cái gì? Sau đó đưa cho một người khác xem và hỏi họ xem nó giống cái gì? Thường thì ý kiến của họ không giống ý kiến của ít bạn! Tại sao vậy? Có thể rút ra kết luận gì từ thí nghiệm này?

BÀI TẬP 8. Kẻ trên một tờ giấy trắng 2 đoạn thẳng A và B. Đoạn thẳng A dài 10 cm, đoạn B dài 4 cm. Dù có xoay tờ giấy theo hướng nào, bạn cũng như mọi người đều thấy rằng đoạn A dài hơn đoạn B.

Từ đó có thể rút ra một đặc điểm quan trọng nào của sự phản ánh tâm lí, mà thiếu nó thì tâm lí học sẽ không phải là một khoa học?

BÀI TẬP 9. Hiện tượng nào dưới đây là hiện tượng vô thức và hiện tượng có ý thức? Những dấu hiệu nào thể hiện điều đó?

  1. a) Một học sinh lớp 7 làm tính nhân một cách nhanh chóng và chính xác, không hề nhớ các quy tắc của phép

nhân.

  1. Một đứa bé khóc không có nước mắt. Nó cố gào lên để đòi mẹ cho tiền chơi trò chơi điện tử.
  2. Một bạn học sinh quyết định thi vào trường Cao đẳng Sư phạm và giải thích rằng đó là gì mình rất yếu trẻ em và thích trình bày các chứng minh toán học một cách dễ hiểu.
  3. Một đứa trẻ khỏe mạnh thì ngay sau khi ra đời đã nắm chặt được ngón tay của người lớn, hoặc cái bút chì, nêu những vật đó chạm vào lòng bàn tay nó.

BÀI TẬP 10. Trong việc giải thích hành vi của con người có hai xu hướng rất phổ biến trong tâm lí học phương Tây.

Xu hướng thứ nhất cho rằng: Hành vi của con người là do các bản năng sinh vật điều khiển. Xu hướng thứ hai lại cho rằng: Hành vi của con người không có gì là bẩm sinh cả, nó đều là sản phẩm của kích thích bên ngoài; con người giống như một cái máy, phản ứng lại các kích thích không phụ thuộc gì vào tâm lí cả.

  1. Nêu tên của hai xu hướng trên trong tâm lí học.
  2. Hai xu hướng trên giống và khác nhau ở chỗ nào?
  3. Phê phán sai lầm của mỗi xu hướng đó.

BÀI TẬP 11. Con khỉ được huấn luyện, hoặc do bắt chước, có thể biết cầm chổi qua nhà, cầm búa đập vỡ gạch, hoặc đeo kính lên mắt. v.v…

  1. Về bản chất những hành động đó của con khỉ có gì khác với những việc làm tương tự của con người không?
  2. Tại sao như vậy?

BÀI TẬP 12. Người ta đối chiếu hành động bắt chước của một con khỉ và một đứa bé ba tuổi rưỡi trong việc “xây dựng” công trình bằng các khối gỗ lập phương, và phát hiện ra những sự kiện sau:

  • Cả hai – con khỉ và đứa trẻ – đều mắc sai lầm khi “xây” nhà với 4 và 5 khối gỗ nhưng nếu một bên có thể tự sửa chữa sai lầm, thì bên kia chỉ có thể làm được điều đó nhờ sự giúp đỡ của nghiệm viên (cán bộ thực nghiệm). Một bên có thể giải quyết được nhiệm vụ sau 4 lần thử, còn bên kia – sau 1 – 2 lần thử.
  • Nhiệm vụ khó nhất đối với một bên là nhiệm vụ kiểu như “xây dựng” cầu mà mặt cầu phải đặt trên hai trụ thẳng đứng. Còn đối với bên kia thì đó lại là nhiệm vụ dễ nhất, nó có thể hoàn thành nhiệm vụ theo sáng kiến riêng.
  1. Hãy xác định sự kiện nào thuộc về hành vi của con khỉ, và sự kiện nào thuộc về hành vi của đứa trẻ?
  2. Những dấu hiệu nào chứng tỏ điều đó?

BÀI TẬP 13: So sánh những lời phát biểu dưới đây về các phương pháp nghiên cứu tâm lí con người. Bạn đồng ý với lời phát biểu nào và không đồng ý với lời phát biểu nào. Tại sao?

  1. “Nguồn gốc duy nhất của sự nhận thức các quá trình tâm lí là tự quan sát”.
  2. “Các hiện tượng tinh thần chỉ có thể được chính người đang trải nghiệm chúng nhận thức hay cảm thụ mà thôi… Chúng ta không thể cảm thụ được đời sống tinh thần của người khác”.
  3. “Hoạt động tâm lí luôn luôn được biểu hiện khách quan trong các hành động, cử chỉ, phản ứng ngôn ngữ, trong những biến đổi hoạt động của các nội quan.
  4. Không được phán đoán về con người theo cái họ nói hay nghĩ về mình, mà phải theo cái họ làm.

BÀI TẬP 14. Hãy xác định xem những phương pháp nào phù hợp hay không phù hợp với những yêu cầu nghiên cứu một cách duy vật biện chứng? Tại sao?

  1. Nghiệm thể (người được nghiên cứu) được đưa vào một phòng cách li đặc biệt. Có các dụng cụ ghi lại nhưng biến đổi về hô hấp, huyết áp, mạch đập xuất hiện khi nghiệm thể bị kích thích tâm lí mạnh. Các kết quả thực nghiệm đối chiếu với các tài liệu khác nhau về nghiệm thể, thu được từ các thí nghiệm khác, từ tiền sử, từ các tài liệu quan sát về nghiệm thể đó trong một hoạt động nhất định của nó.
  2. Xác định một số đặc điểm cá thể của nhân cách nghiệm thể, các năng lực, vị thế xã hội, xu hướng, hứng thú, tính cách, căn cứ theo phiếu trả lời của nghiệm thể.

BÀI TẬP 15. Hãy tìm các thâu hiệu nào là của phương pháp quan sát, các dấu hiệu nào là của phương pháp thụi nghiệm?

  1. Việc nghiên cứu được tiến hành trong những điều kiện tự nhiên đối với nghiệm thể.
  2. Nhà nghiên cứu tác động tích cực vẫn hiện tượng mà mình cần nghiên cứu.
  3. Nghiệm thể không biết rằng mình trở thành đối tượng nghiên cứu.
  4. Việc nghiên cứu được tiến hành trong các phòng thí nghiệm đặc biệt, có sử dụng các dụng cụ thí nghiệm.
  5. e) Nhà nghiên cứu không can thiệp vào diễn biến của hiện tượng tâm lí được nghiên cứu.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Gia sư dạy kèm toán lý hóa anh cấp 1 2 3 tại nhà học sinh uy tín. Trung Tâm Dạy Kèm Trọng Tín

Trung tâm gia sư trọng tín, tập thể giáo viên dạy kèm dạy thêm Toán Lý Hóa từ lớp 6 đến 12 LTĐH tại Tphcm. Tuyển và cung cấp gia sư, giáo viên, sinh viên giỏi uy tín dạy kèm tại nhà Toán Lý Hóa Anh Sinh Văn ... Lớp 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 LTDH tại TPHCM. Tìm giáo viên sinh viên gia sư dạy kèm tại nhà ở các quận trên Tphcm : quận 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12, Bình Tân, Bình Chánh, Tân Bình, Thủ Đức, Củ Chi, Phú Nhuận, Nhà Bè, Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Thạnh, Tân Phú, Bình Dương. Trung Tâm Gia Sư Trọng Tín là nơi dạy thêm, chỗ học thêm, địa chỉ dạy thêm toán lý hóa anh lớp 6 7 8 9 10 11 12 tại Tphcm. Tìm gia sư, giáo viên, sinh viên dạy kèm tại nhà liên hệ : ĐT: 0946321481, 0946069661, 0906873650, (028)66582811 Thầy Tính, Cô Oanh.
error: Content is protected !!
Chat hỗ trợ
Chat ngay